Quyết định giám đốc thẩm số 08/2023/HNGĐ-GĐT ngày 22/5/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án hôn nhân gia đình về “Tranh chấp ly hôn, chia tài sản, hủy hợp đồng mua bán nhà ở, hủy hợp đồng tặng cho nhà ở”

Quyết định giám đốc thẩm số 08/2023/HNGĐ-GĐT ngày 22/5/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án hôn nhân gia đình về “Tranh chấp ly hôn, chia tài sản, hủy hợp đồng mua bán nhà ở, hủy hợp đồng tặng cho nhà ở”

Nội dung hủy án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị V có đơn khởi kiện nêu mâu thuẫn vợ chồng giữa bà và ông Vũ Mạnh C là trầm trọng, không thể hàn gắn nên bà không muốn duy trì quan hệ hôn nhân và cương quyết xin được ly hôn ông C. Ông C cho rằng vợ chồng mâu thuẫn chưa trầm trọng, nhưng cũng thừa nhận vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2019, không còn quan tâm đến nhau. Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 14/12/2021, ông C đồng ý ly hôn bà V theo Bản án sơ thẩm đã tuyên. Lẽ ra Tòa án cấp phúc thẩm cần giữ nguyên phần quyết định này của Tòa án cấp sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng việc giải quyết quan hệ hôn nhân phải gắn liền với việc giải quyết về tài sản chung, do hủy phần về phân chia tài sản chung nên cần hủy cả phần quan hệ hôn nhân của Bản án sơ thẩm là không đúng quy định của pháp luật.

2.Về con chung: Tòa án cấp sơ thẩm giao cho bà V trực tiếp nuôi dưỡng con chung của bà V, ông C là cháu Vũ Lê Trường T1 (sinh ngày 01/10/2005), đồng thời buộc ông C cấp dưỡng nuôi con với số tiền 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi cháu T1 trưởng thành. Sau khi xét xử sơ thẩm, ông C kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông C đồng ý ly hôn và giao con cho bà V nuôi, đồng ý mức cấp dưỡng nuôi con như Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên, phù hợp với nguyện vọng của cháu T1 tại Bản tự khai ngày 22/8/2019. Tòa án cấp phúc thẩm hủy cả phần con chung của Bản án sơ thẩm cũng là không đúng quy định của pháp luật.

3. Trong quá trình tố tụng, ông C chỉ yêu cầu chia giá trị và thừa nhận bà V có công sức đóng góp nhiều hơn trong việc tạo lập tài sản (ông C nội trợ, đưa đón con đi học). Tòa án cấp sơ thẩm chia cho ông C ½ giá trị đối với toàn bộ phần xây dựng của nhà số F L (bao gồm cả phần xây dựng vi phạm quy hoạch nhưng không tranh chấp thiệt hại do tháo dỡ) và nhà số D T theo Chứng thư thẩm định giá số 1680820/CT-TV do Công ty Đ lập ngày 08/10/2020 là có lợi cho ông C. Hiện nay bà V cũng chấp nhận chia theo Bản án sơ thẩm nên quyền và lợi ích hợp pháp của ông C được đảm bảo. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của ông C về việc hủy hai hợp đồng này là có căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập đầy đủ chứng cứ, xác minh làm rõ chi phí xây dựng, công sức đóng góp, phần công trình vi phạm phải phá dỡ…để hủy bản án sơ thẩm là không cần thiết.

4. Đối với nhà, đất tại số D T trong quá trình công khai chứng cứ, bà V xác định nguồn gốc nhà đất này là tài sản riêng của bà và bà có hùn hạp mua chung với bà Lê Thị T. Quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm và hồ sơ thể hiện bà T không có yêu cầu giải quyết việc hùn hạp mua bán, chuyển nhượng chung nhà 42 Trần Văn C2 mà chỉ có yêu cầu ông C phải giao nhà 6A Lê Lư. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng “cần xem xét lại có hay không việc hùn vốn xây dựng nhà 42 Trần Văn C2 để đảm bảo quyền lợi chính đáng của các bên” để hủy bản án sơ thẩm là không cần thiết, nếu bà T và bà V có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ kiện khác khi các đương sự có yêu cầu.