Quyết định giám đốc thẩm số 02/2024/KDTM-GĐT ngày 10/5/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử vụ án kinh doanh thương mại về “Tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư”
Nội dung hủy án:
1. Theo Hợp đồng bao tiêu sản phẩm và Phụ lục Hợp đồng số 01/PLHĐBT ngày 05-3-2018 (bút lục số 28 - 32), cũng như danh sách chốt các căn hộ do Công ty Đ1 lập (bút lục số 87 - 90) đã ký với các khách hàng, thì chỉ còn 13 căn hộ chưa phân phối; Công ty P3 cũng thừa nhận nội dung này và danh sách cụ thể các căn hộ còn lại đều thể hiện rõ số lô, mã hiệu cụ thể. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: “… Bản án sơ thẩm tuyên Công ty Đ1 được quyền phân phối 13 căn hộ, nhưng không xác định cụ thể lô, mã hiệu của từng căn hộ được quyền phân phối” là không đúng.
2. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định: “Công ty TNHH P2 có trách nhiệm làm các thủ tục theo quy định của Nhà nước để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cho Công ty TNHH Đ1 để hoàn thiện thủ tục pháp lý về chủ quyền tài sản cho các khách hàng gốp vốn tại dự án P”, mà không quy định thời gian cụ thể là có căn cứ, bởi lẽ thời hạn cụ thể phụ thuộc vào quyết định của Ủy ban nhân dân thành phố Đ. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: “… Bản án sơ thẩm không xác định cụ thể, rõ ràng về thời hạn, cách thức, phương án mà Công ty TNHH P2 phải thực hiện để bàn giao 13 căn nhà cho Công ty TNHH Đ1 tiếp tục thực hiện quyền phân phối” là định hướng cho Tòa án cấp sơ thẩm quyết định vượt quá thẩm quyền giải quyết.
3. Đối với phần quyết định: Tại Mục 1.2 phần quyết định của bản án sơ thẩm tuyên: “Công ty TNHH Đ1 được quyền phân phối 13 căn hộ tại Dự án P trong tổng số 127 căn hộ (đã phân phối 114 căn hộ)….” là chưa rõ ràng, lẽ ra cần tuyên: “Công ty TNHH Đ1 được quyền phân phối 127 căn hộ tại Dự án P, trong đó đã phân phối 114 căn hộ và tiếp tục được quyền phân phối 13 căn còn lại theo danh sách cụ thể…”. Tuy nhiên, nội dung này, Tòa án cấp phúc thẩm có thể khắc phục, tuyên lại rõ ràng, cụ thể hơn để thuận lợi cho công tác thi hành án.