Bản án dân sự phúc thẩm số 172/2022/DS-PT ngày 19/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng

Nội dung sửa án:

(i) Do cá nhân ông Tống Minh Nghĩa Q là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án, đồng thời là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH xây dựng và tư vấn thiết kế DH (là bị đơn) nên có sự nhầm lẫn, chồng chéo về vai trò và tư cách của ông Tống Minh Nghĩa Q trong lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn nhưng Cấp sơ thẩm không làm rõ, cụ thể:

Nguyên đơn xác định ký hợp đồng thi công với bị đơn là Công ty DH, đã thanh toán tiền mặt là 700.000.000đ cho Công ty ông Q, đã thực hiện thanh toán 4 tỷ đồng vào tài khoản cá nhân của ông Q (không đúng với số tài khoản mà Công ty DH đã cung cấp được ghi nhận trong hợp đồng thi công ngày 30/3/2019) và xác định Công ty ông Q đã nhận 4,7 tỷ đồng. Lời trình bày này là có sự nhập nhằng, lẫn lộn giữa cá nhân ông Q và Công ty DH.

Bị đơn trong lời khai, lời trình bày của mình tại Cấp sơ thẩm, lúc thì trình bày với vai trò là Công ty, lúc thì trình bày trên cơ sở cá nhân ông Q. Sự chồng chéo, nhầm lẫn này không được Cấp sơ thẩm làm rõ.

Ngay cả khi tiến hành lập Biên bản lấy lời khai của đương sự là bị đơn Công ty TNHH xây dựng và tư vấn thiết kế DH, Cấp sơ thẩm lấy lời khai bị đơn là Công ty (do ông Q đại diện) nhưng câu hỏi được Cấp sơ thẩm đưa ra lại là những câu hỏi đối với cá nhân ông Q. Việc này đã ảnh hưởng đến nhận định của Cấp sơ thẩm khi xét xử vụ án do đánh giá chứng cứ không đúng với bản chất sự việc.

Cấp sơ thẩm không làm rõ lý do tại sao nguyên đơn thanh toán cho bị đơn 4,7 tỷ đồng trong khi giá trị hợp đồng ban đầu là 3.268.000.000đ, cộng với trong quá trình thi công công trình thì chi phí xây dựng phát sinh thêm ngoài hợp đồng là 277.000.000đ, tổng giá trị của hợp đồng là 3.545.000.000đ các bên đương sự đều biết rõ.

(ii) Cần xác định giá trị hợp đồng đã được thực hiện là 3.545.000.000đ, trừ đi tiền mượn và chi phí điện nước là 12.600.000đ, còn 3.532.400.000đ. Bà T ông P đã thanh toán cho Công ty DH là 3.300.000.000đ (ghi nhận tại mục [2.2] + ghi nhận tại mục [2.5.2]). Như vậy bà T ông P còn nợ lại Công ty DH là 232.400.000đ. Trong vụ kiện này, bị đơn không có yêu cầu phản tố nên không xem xét đối với số tiền 232.400.000đ nguyên đơn còn nợ bị đơn. Trong trường hợp phát sinh tranh chấp về số tiền này, bị đơn có quyền khởi kiện nguyên đơn bằng một vụ án khác.

Do đó Cấp sơ thẩm nhận định “Bị đơn đã nhận 4,7 tỷ đồng, bị đơn đã trả lại cho nguyên đơn là 900.000.000đ, số tiền bị đơn thực nhận là 3.800.000.000đ, giá trị hợp đồng là 3.545.000.000đ, số tiền bị đơn mượn và chi phí điện nước còn nợ nguyên đơn là 12.600.000đ. Do đó, xét thấy yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả lại số tiền thanh toán chênh lệch thừa 255.000.000đ và 12.600.000đ tiền mượn và chi phí điện nước là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận, cần buộc bị đơn trả cho nguyên đơn tổng số tiền là 267.600.000đ” là chưa chính xác.

Góp ý