Tổng hợp 7 bản án huỷ, sửa về tội “Xâm phạm chỗ ở của người khác”

MỤC LỤC

1. Bản án hình sự phúc thẩm số 48/2024/HS-PT ngày 25/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử về tội “Xâm phạm chỗ ở của người khác” đối với các bị cáo Bùi Văn H và các bị cáo khác do có kháng cáo của các bị cáo

2. Bản án hình sự phúc thẩm số 166/2023/HS-PT ngày 10/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử về tội “Xâm phạm chỗ ở của người khác” đối với các bị cáo Trần Hùng C và Trần Thị Bích N do có kháng cáo của bị hại

3. Bản án hình sự phúc thẩm số 46/2018/HS-PT ngày 30/01/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Xâm phạm chỗ ở của công dân” đối với bị cáo Nguyễn Hồng N do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hồng N và người bị hại Trần Thị Thùy Q

4. Bản án hình sự phúc thẩm số 112/2020/HS-PT ngày 09/11/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử về tội “Xâm phạm chỗ ở của công dân” đối với bị cáo Lê Thị Thanh Th do có kháng cáo của bị cáo Lê Thị Thanh Th và bị hại bà Lê Thị Kim Ch

5. Bản án hình sự phúc thẩm số 313/2020/HS-PT ngày 29/6/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Xâm phạm chỗ ở của công dân” đối với bị cáo Nguyễn Hồng N do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hồng N

6. Bản án hình sự phúc thẩm số 72/2024/HS-PT ngày 30/01/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử về tội “Xâm phạm chỗ ở của người khác” đối với các bị cáo Tr V T; Ng Th Th do có kháng cáo của các bị cáo và bị hại

7. Bản án hình sự phúc thẩm số 775/2023/HS-PT ngày 13/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử về tội “Xâm phạm chỗ ở của người khác” đối với bị cáo Nguyễn Thị B do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị B

 

1. Bản án hình sự phúc thẩm số 48/2024/HS-PT ngày 25/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử về tội “Xâm phạm chỗ ở của người khác” đối với các bị cáo Bùi Văn H và các bị cáo khác do có kháng cáo của các bị cáo

Nội dung hủy án:

Như vậy từ các tài liệu chứng cứ trên, đủ cơ sở khẳng định Phùng Văn C3 có hành vi chiếm chỗ ở của gia đình chị H2 trong thời gian ít nhất trong thời gian từ 4 đến 5 ngày, mặc dù chị H2 đã phản đối, đuổi đi và C3 biết rõ điều đó. Đây là hành vi khách quan của tội Xâm phạm chỗ ở của người khác. Mặc dù Tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung để xử lý hành vi của Phùng Văn C3 trong vụ án, nhưng không được Viện kiểm sát chấp nhận với nhận định C3 không có hành vi khiêng, bê, huỷ hoại tài sản của chị H2, anh H3 và C3 không biết H và những người khác xảy ra tranh chấp đất với chị H2, khi biết khu đất có tranh chấp thì C3 đã tự bỏ về. Nhận định trên của Viện kiểm sát cấp sơ thẩm là không phù hợp với chứng cứ đã được thu thập trong vụ án, dẫn đến bỏ lọt người phạm tội. Vì vậy, Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 358 Bộ luật tố tụng Hình sự, cần hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại vụ án.

Ngoài ra trong hồ sơ vụ án còn có những lời khai thừa nhận việc ở nhà chị H2 của đối tượng Bùi Văn H6 (sau đó H6 phủ nhận), nhưng chị H2 có nhiều lời khai xác định ngoài 4 bị cáo nêu trên còn nhiều người khác xâm phạm chỗ ở của gia đình chị, nên quá trình điều tra lại cũng cần làm rõ hành vi của H6, để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật nếu có căn cứ. Mặt khác, tài liệu điều tra trong hồ sơ vụ án còn thể hiện trong thời gian các bị cáo xâm phạm chỗ ở của gia đình chị H2 thì còn có sự việc nhà chị H2 bị đổ xăng và đốt cháy, sự việc này có dấu hiệu của tội “Giết người”. Theo quy định, sự việc này cần được xem xét, xử lý trong cùng vụ án này. Tuy nhiên, trong hồ sơ có ý kiến của Viện kiểm sát (trong bản cáo trạng truy tố các bị cáo trong vụ án Hủy hoại tài sản), về việc cơ quan Điều tra tách sự việc này ra để xác minh, xử lý sau, nhưng lại không có tài liệu nào của chính Cơ quan Điều tra thể quan điểm, quyết định tách vấn đề này ra xử lý sau, là chưa thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ. Vấn đề này cần được khắc phục khi tiến hành Điều tra lại vụ án.

2. Bản án hình sự phúc thẩm số 166/2023/HS-PT ngày 10/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử về tội “Xâm phạm chỗ ở của người khác” đối với các bị cáo Trần Hùng C và Trần Thị Bích N do có kháng cáo của bị hại

Nội dung hủy án 

(i) Như vậy, sự việc có L, M tham gia cùng 02 bị cáo C, N hay không có nhiều lời khai không thống nhất với nhau nhưng không được làm rõ cũng như không được đối chất lời khai của các bên. Ngoài ra sự tham gia của bà L1 trong quá trình diễn ra hành vi phạm tội có là đồng phạm của các bị cáo C, N hay không cũng không được điều tra, xác minh, đối chất làm rõ.

(ii) Bên cạnh đó, việc thu giữ và xử lý vật chứng của cấp sơ thẩm đã thiếu và không đúng quy định. Tại Biên bản tạm giữ tài sản, đồ vật, tài liệu ngày 26/7/2022 (BL119B) thể hiện các tài liệu bị tạm giữ từ bị cáo C chỉ gồm những giấy tờ đều là bản photo và Biên bản về việc trả lại tài sản, đồ vật, tài liệu ngày 26/7/2022 (BL119C) thể hiện các tài liệu được trả cho bị hại gồm những giấy tờ đều là bản photo. Tuy nhiên, tại Biên bản phiên tòa sơ thẩm (BL220) thể hiện bị cáo đã lấy sổ đỏ bản chính mang tên bà H tại phòng của bị hại H1 và hiện tại bị cáo đang giữ bản chính sổ đỏ này. Tại bản tường trình của bị cáo C đã nêu rằng Tòa án cấp sơ thẩm giao bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bị cáo là hợp lý nên bị cáo không đồng ý giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên cho bị hại H1. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo C khai việc bị cáo giữ sổ đỏ do bị cáo ban đầu giao cho cơ quan Công an nhưng Công an đã không nhận thu giữ sổ đỏ.

Như vậy, việc cấp sơ thẩm đã không xem xét vai trò của Trần Thị Thúy L, Trần Thị Thúy M, Trần Thị Kim L1 có là đồng phạm với các bị cáo C và N hay không và việc xác định, thu giữ vật chứng không chính xác, không đầy đủ dẫn đến việc xử lý vật chứng không đúng, làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của bà H1. Do vụ án có dấu hiệu có đồng phạm khác và cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng về thu giữ và xử lý vật chứng nên Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại theo quy định.

3. Bản án hình sự phúc thẩm số 46/2018/HS-PT ngày 30/01/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Xâm phạm chỗ ở của công dân” đối với bị cáo Nguyễn Hồng N do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hồng N và người bị hại Trần Thị Thùy Q

Nội dung hủy án 

Căn cứ vào Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Chứng cứ là những gì có thật được thu thập theo trình tự thủ tục do Bộ luật này quy định mà cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án”. Qua đó thấy rằng việc thu thập chứng cứ của cơ quan điều tra chưa tuân thủ đúng, đủ trình tự, thủ tục để xác định đầy đủ những yếu tố cơ bản cấu thành tội “Xâm phạm chỗ ở của công dân” được quy định tại Điều 124 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Do đó cần phải làm rõ để xác định căn hộ số AC2-12 Lô H11-2 Mỹ Khánh 3 là chỗ ở hợp pháp của bà Trần Thị Thùy Q được pháp luật công nhận, bảo vệ và hành vi của bị cáo vào trong căn hộ này là hành vi xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác. Ngoài ra, bị hại cũng có kháng cáo về việc bỏ lọt tội trộm cắp tài sản mà cấp sơ thẩm chưa điều tra làm rõ.

4. Bản án hình sự phúc thẩm số 112/2020/HS-PT ngày 09/11/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử về tội “Xâm phạm chỗ ở của công dân” đối với bị cáo Lê Thị Thanh Th do có kháng cáo của bị cáo Lê Thị Thanh Th và bị hại bà Lê Thị Kim Ch

Nội dung hủy án 

(i) Tòa án cấp sơ thẩm đã ban hành Quyết định số 04/2020/HSST-QĐ ngày 09/3/2020 trả hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐTr để điều tra bổ sung và làm rõ vai trò của bà D2, chị Th2, anh Tr2 và luật sư L1 trong vụ án. Tuy nhiên, ngày 08/4/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐTr ra Văn bản số 178/CV-VKS trả lời không có căn cứ cơ sở để xác định bà D2, chị Th2, anh Tr2, luật sư L1 có mặt tại hiện trường. Điều này hoàn toàn không phù hợp với nội dung khiếu nại, tố cáo gửi kèm hình ảnh, video clip nhóm đối tượng hủy hoại tài sản của bị hại bà Ch gửi đến Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra huyện ĐTr ghi ngày 12/12/2017 với nội dung “12h30 ngày 12/12/2017, có nhóm người đi trên 2 xe ô tô bảy chỗ ngồi. Một xe mang biển số 49A-18334 và biển số 49A18958....Trong nhóm người đó tôi có biết một người phụ nữ tên là Văn Thị Phương D2 là người cầm đầu nhóm và một thanh niên tên Nghiêm Bá Khánh Tr2... Sau khi xuống xe, nhóm người trên xông thẳng vào nhà tôi và dùng xăng và dầu nhớt đổ khắp nhà tôi rồi đe dọa đốt nhà....Đến 13h15 phút, nhóm người trên do người phụ nữ cầm đầu (có tên là Văn Thị Phương D2) bắt đầu đập phá nhà tôi....Đến 13h30 phút, bà D2 liên lạc điều động một xe xúc tới nhà tôi. Sau đó một người thanh niên (là Nghiêm Bá Khánh Tr2, con trai của bà D2) đã chỉ huy xe xúc giật sập hàng rào nhà tôi...”. “Tôi biết bà D2 và ông Tr2 từng cư ngụ tại địa chỉ 1C NK, phường 1, thành phố ĐL”. Nội dung trong đơn hoàn toàn phù hợp với hình ảnh, video clip trong USB bà Ch cung cấp, cụ thể hình ảnh nhóm đối tượng xâm phạm chỗ ở của bà Ch, tạt sơn đen (video ký hiệu 20171212_125320), dùng đá ném vào cửa kính (video ký hiệu 20171212_130015; 20171212_130053); dùng máy xúc phá nhà bà Ch (video 20171212_132703). Đồng thời, trên thực tế, hiện nay căn nhà của bà Ch cũng không còn hiện hữu. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà D2, bà Th2 cho rằng mình không được cơ quan điều tra huyện ĐTr triệu tập để làm việc. Như vậy, cơ quan điều tra huyện ĐTr đã không triệt để trong việc tiếp nhận, giải quyết thông tin tội phạm, dẫn đến việc điều tra giải quyết vụ án không toàn diện.

(ii) Ngoài ra, tại phiên tòa, bà Văn Thị Phương D2, bà Nghiêm Phương Th2 khai nhận đã cho người phá bỏ toàn bộ căn nhà tại số 21/3 TrH, HA, ĐTr mà bà Ch HThng ở. Căn nhà này vẫn chưa được Tòa án có thẩm quyền giải quyết xong tranh chấp, vì vậy có dấu hiệu của tội hủy hoại tài sản.

(iii) Căn cứ Điều 12 Luật Cư trú năm 2013; Điều 5 Nghị định 31/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật cư trú đã quy định: “Nơi cư trú của công dân là nơi người đó HThng sinh sống và có xác nhận của Công an xã, phường, thị trấn”. Theo biên bản ngày 29/9/2017 (BL61) của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ĐTr đã tiến hành xác minh tại Công an xã HA kết quả bà Lê Thị Kim Ch, sinh năm 1960 sinh sống và có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ số nhà 21/3 thôn TrH, xã HA, huyện ĐTr từ trước tới nay. Điều 22 Hiến pháp đã quy định “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý”. Hiện nay, Tòa án nhân dân huyện ĐTr HThng giải quyết tranh chấp nhà đất tại địa chỉ trên giữa bà Lê Thị Kim Ch và bà Văn Thị Phương D2, Nghiêm Phương Th2, chưa xác định ai là chủ sở hữu hợp pháp của tài sản. Đồng thời, không có bất kỳ cá nhân, tổ chức nào được quyền cưỡng chế tài sản ngoài cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Vì vậy, những hành vi trên của bị cáo và nhóm đối tượng thực hiện vào ngày 15/9/2017 và ngày 12/12/2017 là vi phạm Hiến pháp và pháp luật Nhà nước.

5. Bản án hình sự phúc thẩm số 313/2020/HS-PT ngày 29/6/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Xâm phạm chỗ ở của công dân” đối với bị cáo Nguyễn Hồng N do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hồng N

Nội dung sửa án 

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi của bị cáo là phạm tội, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết mới phát sinh nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; ngày 25/9/2018, bị cáo ra đầu thú (bl.490). Do vậy, cần áp dụng thêm điểm h, i khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Bị cáo là người có nhân thân tốt; có nhiều tình tiết giảm nhẹ như đã được nêu; phạm tội ít nghiêm trọng (có mức hình phạt cao nhất là 1 năm tù), mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội là có phần hạn chế (bị cáo mở cửa vào căn hộ, khi công an đến làm việc, bị cáo đã chấp hành mà không có hành vi nào mang tính chống đối, phản kháng). Mặt khác, bị cáo là người có nơi cư trú rõ ràng. Vì các lý do đã nêu, việc cách ly bị cáo khỏi xã hội là không cần thiết.

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo là thỏa đáng.

Theo lời khai của bị cáo thì bị cáo có kinh doanh mua bán cà phê nhưng do ảnh hưởng từ dịch bệnh Covid-19 nên hiện tại bị thua lỗ, không có thu nhập. Do vậy, miễn khấu trừ thu nhập của bị cáo.

Các nhận định đã nêu cũng là căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa phúc thẩm.

6. Bản án hình sự phúc thẩm số 72/2024/HS-PT ngày 30/01/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử về tội “Xâm phạm chỗ ở của người khác” đối với các bị cáo Tr V T; Ng Th Th do có kháng cáo của các bị cáo và bị hại

Nội dung sửa án 

Xét việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Tr V T, Ng Th Th Hội đồng xét xử xét thấy: Các bị cáo Tr V T; Ng Th Th đã có hành vi cắt khóa cửa xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác, chiếm giữ trái pháp luật nhà ở của người đang quản lý hợp pháp, tự ý dọn đồ đạc của mình vào nhà khi người quản lý nhà đi vắng rồi ở luôn trong nhà... xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của chủ sở hữu nhà ở bị mất tạm thời chỗ ở, bị ảnh hưởng đến cuộc sống, đến sinh hoạt bình thường của chủ sở hữu nhà ở. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Trong vụ án này có đồng phạm bị cáo Tr V T là người cắt khóa cửa vào nhà ở, bị cáo Thanh là vợ tiếp nhận ý chí cùng thực hiện hành vi xâm phạm chỗ ở của người khác. Bị cáo Thanh còn có hành vi cản trở người chủ sở hữu nhà ở thực hiện quyền quản lý, sử dụng nhà ở của mình. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử đánh giá bị cáo thực hiện các hành vi cản trở là do nhận thức pháp luật còn hạn chế và nguồn gốc chính là nhà của các bị cáo nên xác định hành vi phạm tội của bị cáo Thanh là tiếp nhận ý chí, đồng phạm giản đơn là đối tượng phụ thuộc nên đánh giá vai trò bị cáo Thanh thấp hơn bị cáo Toán.

Hành vi phạm tội của các bị cáo Tr V T, Ng Th Th là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, chính trị, trật tự tại địa phương. Các bị cáo chiếm giữ chỗ ở của người khác kéo dài nhiều tháng, khi Cơ quan tiến hành tố tụng đã có Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quá trình giải quyết vụ án các bị cáo Tr V T, Ng Th Th vẫn tiếp tục để tài sản sinh hoạt trong chỗ ở của người khác thể hiện sự coi thường pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy cần có hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo Toán khỏi đời sống xã hội một thời gian để mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung, các bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo, tại phiên tòa các bị cáo đã nhận thức về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải, các bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, không bị tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt các bị cáo Tr V T, Ng Th Th là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong vụ án này các bị cáo là vợ chồng, bị cáo Thanh chỉ là đồng phạm giản đơn, hiểu biết pháp luật hạn chế, tính nhân đạo của pháp luật, Hội đồng xét xử xem xét lại toàn bộ bản chất của vụ án cho bị cáo Thanh được cải tạo tại địa phương cũng không còn gây nguy hại cho xã hội vẫn đảm bảo giáo dục bị cáo Thanh và phòng ngừa tội phạm chung.

7. Bản án hình sự phúc thẩm số 775/2023/HS-PT ngày 13/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử về tội “Xâm phạm chỗ ở của người khác” đối với bị cáo Nguyễn Thị B do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị B

Nội dung sửa án 

Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chỗ ở của công dân, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại. Tuy nhiên, xét thấy tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo đã thành khẩn khai nhận các hành vi khách quan về thời gian, địa điểm, số lần cắt khóa cửa, phương tiện cắt khóa. Bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do bị cáo và gia đình không có chỗ ở. Xét thấy bị cáo nhân thân tốt, chưa tiền án, tiền sự; Đại diện bị hại có đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Bị cáo sinh năm 1959 là người cao tuổi; Gia đình đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn, bản thân bị cáo đang mắc bệnh suy tim, thấp khớp. Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Với nguyên tắc nhân đạo, khoan hồng của pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy cần cho bị cáo có cơ hội tự nguyện chấp hành pháp luật, bàn giao lại nhà đất choông Đào Công G và di dời ra khỏi nhà để ông Đào Công G bàn giao lại nhà đất cho chị Nguyễn Bảo A. Quá trình bị cáo cải tạo ngoài xã hội nếu không chấp hành tốt quy định pháp luật thì Toà án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự và ấn định thời gian thử thách, để bị cáo được cải tạo ngoài xã hội dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

Góp ý