Tổng hợp 10 bản án hủy, sửa về tội “Cố ý gây thương tích” liên quan đến giám định lại và giám định bổ sung

MỤC LỤC

1. Bản án hình sự phúc thẩm số 23/2021/HS-PT ngày 16/3/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Nguyễn Văn H do có kháng cáo của bị hại Nguyễn Trí C

2. Bản án hình sự phúc thẩm số 136/2020/HS-PT ngày 15/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Trương Thị Mỹ H do có kháng cáo của bị hại Đặng Thị T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đặng Văn T1

3. Bản án hình sự phúc thẩm số 97/2019/HS-PT ngày 31/12/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử về tội “Cố ý gấy thương tích” đối với bị cáo Phạm Văn V và đồng phạm do có kháng cáo của bị cáo Phạm Văn V

4. Bản án hình sự phúc thẩm số 87/2018/HS-PT ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Trần Công Th do có kháng cáo của bị cáo Trần Công Th và bị hại Lê Thị Châu M

5. Bản án hình sự phúc thẩm số 157/2023/HS-PT ngày 29/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Nguyễn Sỹ T do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Sỹ T và bị hại Nguyễn Hoàng V

6. Bản án hình sự phúc thẩm số 96/2022/HS-PT ngày 16/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Thái Văn C do có kháng cáo của bị cáo Thái Văn C và bị hại Phạm Chí C1

7. Bản án hình sự phúc thẩm số 45/2022/HS-PT ngày 30/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Huỳnh Văn Nh do có kháng cáo của đại diện hợp pháp của người bị hại

8. Bản án hình sự phúc thẩm số 558/2022/HS-PT ngày 16/12/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Nguyễn Văn S do có kháng cáo của bị hại

9. Bản án hình sự phúc thẩm số 481/2022/HS-PT ngày 22/11/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Trần Ngọc H do có kháng cáo của các bị hại Trương Minh T và Trương Minh T1

10. Bản án hình sự phúc thẩm số 58/2022/HS-PT ngày 07/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với các bị cáo Hà Thế C, Lê Văn V do có kháng cáo của bị cáo C, bị cáo V; bị hại Lê Xuân Tr, bị hại Lê Văn Ng và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Đ

 

1. Bản án hình sự phúc thẩm số 23/2021/HS-PT ngày 16/3/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Nguyễn Văn H do có kháng cáo của bị hại Nguyễn Trí C

Nội dung hủy án 

Tại cấp sơ thẩm, bị hại Nguyễn Trí C có đơn yêu cầu giám định bổ sung và xác định lại thương tích, do Bản kết luận giám định thương tích số: 271/TgT-TTPY ngày 06/3/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đăk Lăk không nêu rõ % từng thương tích cụ thể mà chỉ tính tổng thương tích 05% là trái với quy định của pháp luật về xác định thương tích, mặt khác, theo trình bày của bị hại hiện nay bàn tay trái của anh C không nắm lại được và trí nhớ rất kém. Do đó, căn cứ theo khoản 1 Điều 4 Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28-8-2019 của Bộ y tế quy định về phương pháp xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể quy định: “Việc xác định tỷ lệ % TTCT được tính theo phương pháp cộng như sau: Tổng tỷ lệ % TTCT = T + T1 + T3 +...+ Tn;”

Điểm a khoản 1 Điều 210 của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định “Việc giám định bổ sung được tiến hành trong trường hợp: Nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ;”

Khoản 1 khoản 2 Điều 211 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “1. Việc giám định lại được thực hiện khi có nghi ngờ kết luận giám định lần đầu không chính xác. Việc giám định lại phải do người giám định khác thực hiện.

2. Cơ quan trưng cầu giám định tự mình hoặc theo đề nghị của người tham gia tố tụng quyết định việc trưng cầu giám định lại…”

Ngày 28-8-2020, Tòa án nhân dân huyện Krông Nô đã quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô điều tra bổ sung, trong đó có nội dung yêu cầu giám định bổ sung, giám định lại đối với thương tích của bị hại theo đúng quy định của pháp luật, tuy nhiên Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô không trả hồ sơ cho Cơ quan cảnh sát điều tra thực hiện thủ tục yêu cầu Cơ quan chuyên môn giám định bổ sung, giám định lại mà chỉ có văn bản yêu cầu giải thích đối với nội dung của Bản kết luận giám định thương tích số: 271/TgT-TTPY ngày 06/3/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đăk Lăk. Sau khi nhận được văn bản trả lời của Cơ quan giám định, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô có Công văn số 651/VKS-HS ngày 23-09-2020 trả lời đối với yêu cầu trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân huyện Krông Nô và giữ nguyên quyết định truy tố. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật về yêu cầu giám định bổ sung, giám định lại, do đó có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị hại, hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô điều tra lại theo thủ tục chung quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Bản án hình sự phúc thẩm số 136/2020/HS-PT ngày 15/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Trương Thị Mỹ H do có kháng cáo của bị hại Đặng Thị T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đặng Văn T1

Nội dung hủy án 

(i) Về tỷ lệ thương tích của bà T: Theo lời khai ba nhân chứng tại các bl 72, 73, 74 thì sau khi bị đánh nằm viện về bà T vẫn sinh hoạt bình thường không có biểu hiện gì. Đến thời gian gần đây (cách thời gian bị đánh khoảng 10 tháng) mới nghe bà T than nhức đầu, hay quên, mất ngũ. Như vậy, sau khi bị đánh bà T không hề bị tổn thương về tâm thần. Nhưng sau đó đến 10 tháng lại bị tổn thương về tâm thần là ngược với thường tình, bỡi lẽ khi bị tác động về tâm lý thì thời gian diển ra sự kiện càng xa thì sự việc càng phai nhạt đi cớ sau lại trầm trọng hơn. Cấp sơ thẩm chưa điều tra làm rõ nguyên nhân bất hợp lý này, mà lại tùy tiện chỉ lấy tỷ lệ tổn thương thân thể 07% làm căn cứ khởi tố nên dẫn chưa thuyết phục được bị hại. Về vấn đề bị hại không chịu đi giám định lại Hội đồng xét xử nhận thấy, theo quy định tại khoản 4 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự thì Người Bị hại có nghĩa vụ:

a) Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải;

b) Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Do đó việc Cơ quan điều tra cho rằng bà T không chịu đi giám định lại nên chỉ lấy kết luận tỷ lệ thương tích làm căn cứ khởi tố là chưa điều tra đầy đủ, dẫn đến giải quyết chưa đúng bản chất nội dung vụ án. Ngoài ra bị cáo H cũng có quyền yêu cầu giám định lại về tâm thần đối với bà T, nhưng cấp sơ thẩm cũng chưa làm rõ ý chí của bị cáo H về vấn đề này.

(ii) Về hành vi gây thương tích cho ông T1:

- Theo giấy y chứng của bệnh viện đa khoa Tiền Giang và bệnh viện Chợ rẫy xác định thương tích của anh T1 gồm sẹo vết thương đốt bàn tay ngón III, IV bàn tay phải. Gãy đốt I ngón IV bàn tay phải, tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 05%. Vết thương do vật sắc gây nên.

- Theo ông T1 xác định tại hầu hết các lời khai là bị gây thương tích lúc té xuống sông bị H dùng tay, K dùng đoạn tre tròn dài khoảng 0,6 m, C1 dùng võ chai bia còn nguyên đánh. Như vậy các hung khí này đều hình tròn không phải là vật sắc nên không có cơ sở xác định vật gì gây ra thương tích cho ông T1. Tuy nhiên, nơi ông T1 bị gây thương tích là ở dưới sông nên không loại trừ khả năng do bị đánh và bị lôi kéo dưới sông bị va chạm vào vật sắc dưới nước gây thương tích.

- Tuy không có cơ sở xác định vật gì và ai trực tiếp gây ra thương tích cho ông T1, nhưng rõ ràng ông T1 bị thương tích sau khi bị các đối tượng H, K, C1 đánh hội đồng dưới sông. Do đó các đối tượng này phải chịu trách nhiệm đối với thương tích của ông T1. Cơ quan điều tra chỉ chú trọng vào tình tiết định khung “dùng hung khí nguy hiểm” nhưng lại không xem xét tình tiết định khung “có tính chất côn đồ” là thiếu sót. Các đối tượng khai D bị T1 đánh nên các đối tượng mới đánh T1. Như vậy phải làm rõ mối quan hệ giữa H C1, K với D có quan hệ ra sau để xác định tính chất côn đồ của từng đối tượng đặc biệt là đối với Đổ Tấn K là điều tra chưa đầy đủ, dẫn đến xử lý không toàn diện vụ án.

(iii) Về phần trách nhiệm dân sự của các đối tượng K, C1, H đối với ông T1: Án sơ thẩm kết luận chưa có đủ cơ sở kết luận thương tích của anh T1 do hung khí nguy hiểm gây ra nên chưa có cơ sở xử lý về hình sự các đối tượng H, K, C1, nhưng lại buộc các đối tượng này bồi thường chung trong vụ án hình sự này là không có căn cứ pháp luật. Bỡi lẽ Trách nhiệm dân sự trong hình sự chỉ phát sinh khi có hành vi phạm tội bị tòa kết án. Đối với hành vi không xử lý được về mặt hình sự thì Cơ quan điều tra phải chuyển vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính và thông báo cho ông T1 biết có quyền khởi kiện tranh chấp yêu cầu bồi thường T2 hại về sức khỏe bị xâm hại ra tòa án để được giải quyết bằng một vụ án dân sự theo thủ tục chung.

3. Bản án hình sự phúc thẩm số 97/2019/HS-PT ngày 31/12/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử về tội “Cố ý gấy thương tích” đối với bị cáo Phạm Văn V và đồng phạm do có kháng cáo của bị cáo Phạm Văn V

Nội dung hủy án 

Thấy rằng, thủ tục giám định thương tích người bị hại được thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án có sự không thống nhất giữa kết quả giám định lần đầu và kết quả giám định bổ sung do Trung tâm Pháp y tỉnh Phú Yên thực hiện xác định thương tích bị hại là 32% đối với kết quả giám định lại do Phân viện pháp y Quốc gia tại TPHCM thực hiện xác định thương tích bị hại là 9%. Trong khi đó, quá trình giám định bổ sung do Trung tâm Pháp y tỉnh Phú Yên thực hiện xác định thương tích bị hại là 32% và quá trình giám định lại do Phân viện pháp y Quốc gia tại TPHCM thực hiện xác định thương tích bị hại là 9% đều được thực hiện nhưng không có các bản phim chụp CT vùng sọ não do bác sỹ Nguyễn Thăng Long, khoa chuẩn đoán hình ảnh Bệnh viện Quân y 13 Quân khu V thực hiện vào các ngày 10/6/2014 và ngày 16/6/2014 nhưng các cơ quan tiến hành giám định, giám định viên đã thực hiện giám định không giải thích rõ được lý do có sự không thống nhất này, vậy kết quả giám định thương tích bị hại nào là chính xác, đúng quy định pháp luật? dẫn đến khó khăn trong việc giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng. Lẽ ra, cấp sơ thẩm phải tiến hành đề nghị Viện pháp y Quốc gia là cơ quan giám định có thẩm quyền cao nhất xem xét trả lời về việc có thể tiến hành giám định lại lần II khi thiếu các phim chụp CT hay không? Trên cơ sở đó tiến hành trưng cầu giám định lại lần II để xác định chính xác tỷ lệ thương tích của người bị hại, đây là tình tiết ảnh hưởng đến việc xác định chính xác khung hình phạt đối với các bị cáo nhưng cấp sơ thẩm chưa thực hiện, nên việc xử lý vụ án của cấp sơ thẩm chưa đầy đủ, cấp phúc thẩm không thể bổ sung, khắc phục được. Để việc giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật, Kiểm sát viên đề nghị hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số: 12/2018/HS-ST ngày 01/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Tuy An, để điều tra lại (giám định lại lần II) nhằm xác định chính xác thương tích của người bị hại như văn bản trả lời của Viện pháp y Quốc nhằm xem xét giải quyết toàn diện vụ án là có cơ sở chấp nhận.

4. Bản án hình sự phúc thẩm số 87/2018/HS-PT ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Trần Công Th do có kháng cáo của bị cáo Trần Công Th và bị hại Lê Thị Châu M

Nội dung hủy án 

(i) Theo hồ sơ vụ án thể hiện bị cáo không thừa nhận thực hiện hành vi dùng chân “đạp vào đầu gối” của bị hại; trong khi đó lời khai của bị hại cho rằng bị cáo thực hiện hành vi dùng chân “đạp vào đầu gối” bị hại dẫn đến thương tích. Đối chiếu tài liệu chứng cứ khác thể hiện, sự việc xảy ra trong nhà bị cáo Th và chỉ có bị hại bà M, bị cáo, bà L (vợ bị cáo), chị L1 (con bị cáo) chị T (con bị hại), trong khi đó giữa lời khai của bà L, chị T khai mâu thuẫn. Ngoài ra, lời khai người làm chứng như ông M, bà Đ, ông H, ông Đ, chị N không chứng kiến sự việc xảy ra trong nhà, nên không ai nhìn thấy bị cáo dùng chân đạp vào đầu gối bị hại. Tại phiên tòa phúc thẩm người làm chứng ông Đ, bà Đ xác định kể từ khi bị cáo Th, bà L cầm tay, kẹp nách ôm đẩy bị hại từ trong nhà ra đến cổng nhà của bị cáo Th, sau đó bị hại còn chạy theo cầm đá, cầm ổ khóa ném bà L và chạy từ cổng vào đến thềm nhà thì thấy bị hại vấp ngã. Như vậy, theo bản kết luận giám định số: 801/GĐ-PC54 (bút lục 444) cho rằng “đứt dây chằng chéo trước gối trái do ngoại lực tác động hoặc do chạy dùng đột ngột và chuyển hướng hoặc xoay người đột ngột”. Do vậy, cần điều tra làm rõ việc bị hại chạy từ cổng vào thềm nhà và việc bị vấp ngã thế nào để xác định thương tích đầu gối của bị hại có phải do vấp ngã tại vị trí thềm nhà của bị cáo hay không?

(ii) Tài liệu bệnh án và các tài liệu khai khi nhập viện tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lâm Đồng (bút lục 385) thể hiện chụp XQ ghi “ khe khớp đùi, chày và đùi, xương bánh chè bình thường, mâm chày không có đường gãy, gai chày không có hình ảnh bất thường; xương bánh chè, đầu gối, xương đùi... Hiện tại chưa có dấu hiệu bất thường. Tài liệu chụp MRI ngày 04/11/2014 tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lâm Đồng thể hiện “rách, thoái hóa sừng sau sụn chêm trong (grade III) và thoái hóa sừng trước sụn chêm trong (grade II)”. Đối chiếu tài liệu giấy chuyển viện đến Bệnh viện chấn thương chỉnh hình Thành Phố Hồ Chí Minh ghi “chấn thương gối trái/rách, thoái hóa sừng sau sụn chêm trong, dứt bản phần dây chằng chéo trước” (bút lục 53) trong khi đó tài liệu hồ sơ vụ án không thể hiện bị hại bà M nhập viện theo giấy chuyển viện đến Bệnh viện chấn thương chỉnh hình Thành Phố Hồ Chí Minh để điều trị. Do vậy cần điều tra làm rõ tình trạng thương tích bị hại bà M điều trị tại Bệnh viện chấn thương chỉnh hình Thành Phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, sau 20 ngày sau (ngày 26-11-2014) bị hại bà M tự đến nhập viện Bệnh viện chấn thương chỉnh hình Thành Phố Hồ Chí Minh với tình trạng thương tích “đứt dây chằng chéo trước gối trái, rách sụn chêm ngoài, vỡ sụn cầu lồi...” (bút lục 54) nên cần điều tra làm rõ về nội dung này.

(iii) Tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại bà M xác định không nhập viện Bệnh viện Bình Dương; trong khi đó tài liệu trưng cầu giám định lại thể hiện hình ảnh chụp MRI của Bệnh viện Bình Dương là mâu thuẫn không phù hợp lời khai của bị hai.

Từ phân tích nêu trên, với chứng cứ thu thập của Cơ quan điều tra chưa đầy đủ để chứng minh hành vi của bị cáo Th có dùng chân đạp vào đầu gối của bị hại dẫn đến thương tích, nên cần hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra lại vụ án theo thủ tục chung.

5. Bản án hình sự phúc thẩm số 157/2023/HS-PT ngày 29/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Nguyễn Sỹ T do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Sỹ T và bị hại Nguyễn Hoàng V

Nội dung hủy án 

(i) Quá trình điều tra kéo dài từ năm 2020 đến năm 2023, lời khai của ông H1 và ông Tuấn A có sự thay đổi. Cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm thay đổi kết quả giải quyết nguồn T về tội phạm nhưng không nêu rõ lý do, căn cứ; chỉ căn cứ vào các lời khai khác của ông H1, người làm chứng ông T5, ông Tuấn A (đã có sự thay đổi so với lời khai ban đầu) mà không đánh giá các lời khai ban đầu cũng như không đánh giá tính phù hợp trong lời khai của ông H1, ông Tuấn A với lời khai của bị hại, người làm chứng bà T3, ông T4 cũng như vị trí thương tích của bị hại; không làm rõ mâu thuẫn trong lời khai của bị cáo, bị hại, ông H1 và những người làm chứng để xác định ông H1 có đánh bị hại hay không là đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ, toàn diện và có dấu hiệu bỏ lọt người phạm tội. Mặt khác, tại phiên tòa phúc thẩm, ông H1 không thừa nhận chữ ký, chữ viết Nguyễn Sỹ H1 và nội dung “tôi đã đọc lại biên bản những gì ghi trong biên bản là đúng những gì tôi đã khai” trong biên bản ghi lời khai ngày 13/8/2020 (bút lục số 171) nên Cơ quan điều tra cần phải điều tra xác định có phải chữ ký, chữ viết này là của ông H1 hay không để làm cơ sở xem xét, đánh giá chứng cứ giải quyết vụ án đúng pháp luật.

(ii) Bên cạnh đó, quá trình điều tra, lời khai của bị cáo, bị hại, người làm chứng có sự mâu thuẫn về việc xác định những ai tham gia đánh bị hại; ông H1 có mặt tại hiện trường hay chỉ có mặt trong nhà của bị cáo khi xảy ra sự việc; nếu ông H1 có mặt tại hiện trường thì từ thời điểm nào (trước, trong hay sau khi bị cáo và bị hại đánh nhau). Quá trình giải quyết vụ án, bị cáo có lúc khai khi bị cáo và bị hại đánh nhau thì ông H1 ra can ngăn (bút lục số 147, 151), có lúc khai khi bị cáo vào nhà, bị hại đuổi theo thì ông H1 ở trong nhà can ngăn, đẩy bị hại ra ngoài, ông T5 và ông Tuấn A vào can ngăn (bút lục số 267, 270, 405). Ông H1 có lúc khai khi nghe tiếng cãi nhau thì ông H1 đi ra nói chuyện với bị hại, ông T4 vào can ngăn bị cáo và bị hại đánh nhau (bút lục số 169), có lúc khai khi nghe tiếng cãi nhau thì chạy ra, thấy bị cáo và bị hại đánh nhau, bị cáo vào nhà, bị hại đuổi theo thì ông H1 vào nhà kéo bị hại ra (bút lục số 166, 167, 174), có lúc lại khai ông H1 không có mặt tại hiện trường, ở trong nhà thấy bị hại đuổi đánh bị cáo nên ông H1 vào can ngăn, đẩy bị hại ra ngoài (bút lục số 173, 406). Tuy nhiên, bị hại và người làm chứng bà T3, ông T4 khai bị cáo, ông H1 và bị hại chỉ đánh nhau ở ngoài, không có việc bị hại vào trong nhà của bị cáo; người làm chứng ông T5, ông Tuấn A khai chỉ can ngăn các bên đánh nhau ở ngoài cổng, không vào trong nhà, phù hợp lời khai của bị cáo tại biên bản ghi lời khai ngày 20/5/2020 (bút lục số 147, 148) nhưng quá trình điều tra, Cơ quan điều tra chỉ tiến hành đối chất giữa bị cáo và bị hại mà không tiến hành đối chất làm rõ mâu thuẫn trong lời khai của bị cáo, bị hại, ông H1 và những người làm chứng về những vấn đề nêu trên là điều tra chưa đầy đủ.

(iii) Quá trình thực nghiệm điều tra, dựng lại hiện trường, lời khai của bị cáo, bị hại và người làm chứng có sự khác nhau về diễn biến sự việc nhưng Cơ quan điều tra chỉ lập 01 biên bản, dựng chung 01 hiện trường theo những lời khai khác nhau của bị cáo, bị hại và người làm chứng là chưa thể hiện rõ vị trí, hành vi của từng người nên không thể làm cơ sở để đánh giá các tình tiết, hành vi khách quan và tính toàn diện của vụ án. Vì vậy, Cơ quan điều tra cần phải thực nghiệm điều tra, dựng lại từng hiện trường, diễn lại hành vi, tình huống theo từng lời khai khác nhau của bị cáo, bị hại và người làm chứng.

(iv) Về cơ chế hình thành thương tích của bị hại:

Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm xác định chỉ dùng tay phải đấm 02 cái vào gò má, hàm phải và mũi của bị hại. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai chỉ dùng tay phải đấm 02 cái vào vùng cằm phải và vùng mang tai phải của bị hại. Tuy nhiên, giấy chứng nhận thương tích và các kết luận giám định xác định bị hại có nhiều thương tích như vỡ thành xoang hàm phải, gãy xương gò má phải, gãy xương cánh mũi trái và vỡ xương thành ngoài hốc mắt phải. Như vậy, lời khai của bị cáo về việc đấm 02 cái gây thương tích cho bị hại chưa phù hợp với hậu quả thương tích thực tế của bị hại. Cơ quan điều tra chưa làm rõ việc bị cáo đấm bị hại 02 cái vào vùng mặt bị hại gây nên những thương tích nào, ngoài thương tích do bị cáo gây ra thì đối với những thương tích còn lại do ai gây ra, nguyên nhân, cơ chế hình thành các thương tích này như thế nào.

(v) Như vậy, có sự mâu thuẫn trong giấy chứng nhận thương tích của Bệnh viện Becamex, giấy chứng nhận thương tích của Bệnh viện Colombia Asia, kết luận giám định của Phân viện tại Thành phố Hồ Chí Minh – Viện Pháp y Quốc gia và kết luận giám định Viện Pháp y Quốc gia – Bộ Y tế về việc xác định bị hại có bị thương tích gãy xương sườn III bên phải hay không nhưng sau khi có kết quả giám định cuối cùng, Cơ quan điều tra không tiến hành, điều tra làm rõ mâu thuẫn về thương tích của bị hại là điều tra chưa đầy đủ. Mặt khác, ngoài thương tích gãy xương mũi trái, gãy thành xoang hàm phải, gãy thành hốc mắt phải thì tại kết luận giám định của Phân viện tại Thành phố Hồ Chí Minh – Viện Pháp y Quốc gia xác định thương tích của bị hại “viêm xoang hàm phải: 08%” nhưng tại kết luận giám định của Viện Pháp y Quốc gia – Bộ Y tế xác định “gãy cung tiếp gò má phải 08%”, không có thương tích “viêm xoang hàm phải” nhưng Cơ quan điều tra không làm rõ 02 loại thương tích này có phải là một, chỉ khác nhau về tên gọi hay là 02 loại thương tích khác nhau.

(vi) Quá trình giải quyết vụ án, bị hại yêu cầu thường thiệt hại gồm chi phí điều trị thương tích, thu nhập thực tế bị mất, bồi thường cho người chăm sóc bị hại, bồi thường chi phí điều trị lâu dài, cấp dưỡng, bồi thường tổn thất tinh thần và chi phí thuê Luật sư tổng cộng với số tiền 451.856.220 đồng (đơn yêu cầu bồi thường ngày 26/7/2023). Tại phiên tòa sơ thẩm, bị hại chỉ yêu cầu giải quyết trong vụ án khác đối với những chi phí điều trị sau này của bị hại (biên bản phiên tòa sơ thẩm – bút lục số 406). Những yêu cầu về thu nhập thực tế bị mất của bị hại, của người chăm sóc, bồi thường lâu dài, bồi thường về cấp dưỡng, bồi thường tổn thất tinh thần, chi phí thuê Luật sư bảo vệ quyền lợi của bị hại, Tòa án cấp sơ thẩm không làm rõ và yêu cầu bị hại cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh về thiệt hại, chưa đánh giá, xem xét, nhận định đầy đủ, toàn diện đối với từng yêu cầu bồi thường của bị hại để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của bị hại là giải quyết vụ án chưa toàn diện, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp người yêu cầu.

6. Bản án hình sự phúc thẩm số 96/2022/HS-PT ngày 16/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Thái Văn C do có kháng cáo của bị cáo Thái Văn C và bị hại Phạm Chí C1

Nội dung hủy án 

(i) Trong biên bản thực nghiệm điều tra thì giữa bị cáo và bị hại thống nhất việc bị cáo đánh bị hại, bị hại chống đỡ, ngã xuống mặt đường là phù hợp nhau. Đây cũng là căn cứ để trưng cầu giám định nhưng các kết luận giám định đều trái ngược nhau, phủ định kết luận giám định trước nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại lấy một phần của Kết luận giám định bổ sung lần thứ nhất để xác định vết thương vai trái của bị hại có thể do té ngã hoặc do gậy dũ 3 khúc bằng kim loại gây ra và một phần của Kết luận giám định bổ sung lần thứ hai rằng việc té ngã không thể gây thương tích vai trái và các công văn giải thích giám định để kết án đối với bị cáo.

(ii) Mặt khác, chiều ngày 20/5/2020 đến khám bệnh tại Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình Thành phố Hồ Chí Minh, hồ sơ bệnh án đối với Phạm Chí C1 ghi nhận: có tiền sử trật khớp vai (T), chẩn đoán trật khớp vai (T) lần hai; xử lý nắn trật, đai Desault vai (T). Trong khi, ngày 22/5/2020, Phạm Chí C1 đến Bệnh viện Quân y 120 khám bệnh được Bệnh viện chẩn đoán: chấn thương phần mềm thái dương (P) do bị đánh mà không đề cập gì đến tình trạng thương tích ở vai trái. Sau 15 ngày kể từ ngày khám bệnh lần đầu, tức ngày 04/6/2020, bị hại Phạm Chí C1 nhập viện tại Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình Thành phố Hồ Chí Minh lần hai, chuẩn đoán: tổn thương BanKart xương vai (T) đã nắn trật. Điều trị mổ nội soi may bao khớp, đau vai chi trên (T). Song cấp sơ thẩm chưa làm rõ vết thương của bị hại Phạm Chí C1 khi khám, điều trị vào ngày 20/5/2020 có liên quan đến vết thương của bị hai Phạm Chí C1 khám điều trị từ ngày 04/6/2020 đến ngày 08/6/2020 của Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình Thành phố Hồ Chí Minh hay không hay do nguyên nhân khác trong khoảng thời gian 15 ngày bị cáo ở nhà.

Do hồ sơ vụ án chưa xác định được thương tích của bị hại Phạm Chí C1 do đâu mà có, bị cáo không thừa nhận thương tích của bị hại do bị cáo gây ra, các bản Kết luận giám định về thương tích của bị hại mâu thuẫn với nhau và chưa làm rõ thương tích của bị hại giữa 2 lần khám, điều trị tại Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình Thành phố Hồ Chí Minh có liên quan với nhau về việc gậy dũ 3 khúc gây ra hay không. Vì vậy, cần hủy Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho cấp sơ thẩm điều tra lại theo thủ tục chung.

7. Bản án hình sự phúc thẩm số 45/2022/HS-PT ngày 30/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Huỳnh Văn Nh do có kháng cáo của đại diện hợp pháp của người bị hại

Nội dung hủy án 

Theo chứng cứ có trong hồ sơ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa thể hiện, ngày 02/02/2022 do có bất đồng trong quá trình tham gia giao thông trên đường, mặc dù không xảy ra va chạm gì lớn nhưng Huỳnh Văn Nh đã có hành vi cầm chìa khóa xe mô tô hiệu Vario bằng kim loại, dài 8,5cm, đầu hơi nhọn, với cách thức xóc ngược, dùng lực mạnh đánh, đâm vào vùng đầu của Võ Phước Y nhiều cái, gây ra nhiều vết thương ở vùng trán trái, làm Y ngất xỉu tại chỗ và tử vong sau đó. Khi thực hiện hành vi như vậy, bị cáo nhận thức được là sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng của người bị tấn công nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện và hậu quả chết người đã xảy ra. Do đó, hành vi của bị cáo đủ yếu tố phạm tội giết người, cụ thể:

Theo chứng cứ trong hồ sơ thể hiện, chìa khóa xe mô tô hiệu Vario bằng kim loại, dài 8,5cm, đầu hơi nhọn mà bị cáo Nh cầm để tấn công vào người của bị hại Y là vật cứng, là phương tiện nguy hiểm nếu sử dụng để tấn công người khác với cách thức cầm xóc ngược để đánh, đâm thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe của người bị tấn công. Thực tế, theo kết luận giám định xác định chìa khóa xe mô tô hiệu Vario mà bị cáo Nh sử dụng để tấn công vào người Võ Phước Y gây ra được vết thương dẫn đến tử vong trên người Võ Phước Y.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 08/02/2022, bị cáo Nh khai nhận dùng chìa khóa xe đánh Y, đến nay lòng bàn tay còn đau. Do đánh vào người Y một lực lớn và chìa khóa tác động lại lòng bàn tay làm bị đau (Bút lục 174). Qua đó chứng tỏ bị cáo sử dụng chìa khóa xe bằng kim loại là phương tiện nguy hiểm dùng một lực rất mạnh tấn công vào vùng đầu của bị hại Y gây ra vết thương dẫn đến tử vong, bởi bị cáo thực hiện hành vi vào ngày 02/02/2022, đầu chìa khóa xe tác động lại lòng bàn tay của bị cáo mà mãi đến ngày 08/02/2022 (tức đã 6 ngày sau) lòng bàn tay vẫn còn đau thì chứng tỏ lực tấn công rất mạnh mới tác động lại lòng bàn tay của bị cáo đến mức như vậy.

Theo chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện, mặc dù bị hại Y không tử vong ngay sau khi bị bị cáo Nh dùng chìa khóa xe tấn công, nhưng Y đã bị ngất xỉu, hôn mê ngay lúc đó và đã nguy hiểm đến tính mạng, quá trình từ khi bị tấn công, đưa vào bệnh viện đến khi tử vong thì không hồi tỉnh lại được thời gian nào (Bút lục 89 - 155).

Từ các phân tích trên cho thấy, bị cáo Nh dùng phương tiện nguy hiểm, với cách thức sử dụng nguy hiểm tấn công một cách quyết liệt vào vùng trọng yếu trên cơ thể của bị hại Võ Phước Y, hậu quả gây ra nhiều thương tích ở vùng đầu trong đó có vết thương dẫn đến tử vong. Khi thực hiện hành vi như vậy, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm đến tính mạng của người khác, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn cố ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra và trên thực tế hậu quả chết người đã xảy ra, nên hành vi của bị cáo cấu thành tội giết người.

8. Bản án hình sự phúc thẩm số 558/2022/HS-PT ngày 16/12/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Nguyễn Văn S do có kháng cáo của bị hại

Nội dung hủy án 

(i) Nhận thấy, Cơ quan điều tra đã cho đối chất nhưng các bên giữ nguyên lời khai, lời khai của bị cáo S và bị hại X phù hợp với nhau là bị cáo S chỉ đánh vào sườn của bị hại, tuy nhiên Cơ quan điều tra chưa cho thực nghiệm điều tra để xác định hành vi chính xác của các đối tượng đánh nhau, ai tấn công ai, hành vi của các đối tượng diễn ra như thế nào, chưa xác định được ai gây ra vết thương trên đầu bị hại X là có thiếu sót trong việc điều tra toàn diện vụ án.

(ii) Các lời khai của các đối tượng còn lại mâu thuẫn nhau, X có thương tích ở đầu nhưng không ai thừa nhận gây ra. Do vậy cần thiết phải điều tra xác định chính xác hành vi của các đối tượng, xem những ai là người đã gây ra thương tích trên đầu của bị hại X.

(iii) Tại Cơ quan điều tra có thu giữ ống thép là hung khí dùng để đánh X, tuy nhiên không lưu hình ảnh vào hồ sơ vụ án và cũng chưa giám định mức độ gây sát thương của hung khí trên, xem hung khí đó có khả năng gây sát thương, gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng của con người hay không vì các đối tượng đã có hành vi dùng hung khí đánh vào vùng trọng yếu (ngực, gây gãy sườn) của bị hại. Theo kết luận giám định pháp y về thương tích và Thông tư 22/2019/TTBYT ngày 28/8/2019 của Bộ y tế quy định tỉ lệ tổn thương cơ thể thì bị hại có vết thương vùng đỉnh đầu, vùng hạ sườn và tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 6%. Do thương tích gây nên là 6% (tỷ lệ này được giám định sau 6 ngày xảy ra vụ án nên chưa thể hiện đúng tính chất mức độ vết thương), tuy là thương tích tỷ lệ nhỏ nhưng tương tự theo Án lệ số 47/2021/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 25/11/2021 thì hành vi của bị cáo có dấu hiệu của tội danh khác nặng hơn.

9. Bản án hình sự phúc thẩm số 481/2022/HS-PT ngày 22/11/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Trần Ngọc H do có kháng cáo của các bị hại Trương Minh T và Trương Minh T1

Nội dung hủy án 

(i) Thứ hai, các bị hại Trương Minh T1, Trương Minh T cung cấp USB và hình ảnh chứa nội dung thể hiện bị cáo cùng các đồng phạm khác tấn công bị hại. Tuy nhiên, C quan điều tra sơ thẩm chưa điều tra xác minh rõ nguồn gốc, nội dung của các file clip và hình ảnh nêu trên là điều tra chưa đầy đủ. Do vậy, cần xác minh làm rõ ai quay đoạn video trên, thu thập lại file gốc và xác minh hình ảnh chứa trong clip có thật hay không hay do cắt ghép hoặc là một clip thể hiện nội dung khác. Nếu có căn cứ cần trích xuất dữ liệu điện tử, nhận dạng những người có trong clip để để xác định có dấu hiệu hành vi phạm tội hay không?

(ii) Thứ ba, Theo Kết luận giám định số 900/KLGĐ-TT ngày 22/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: “Khẩu súng dài gửi giám định là súng tự chế, không súng, nòng súng không có đường khương tuyến….khẩu súng dài gửi giám định có tính năng, tác dụng tương tự như súng săn”, tuy nhiên không giám định tính chất sát thương của khẩu súng. Do đó, cần giám định mức độ gây sát thương của khẩu súng mà bị cáo dùng để tấn công các bị hại, súng đó có khả năng gây sát thương, phá hủy kết cấu vật chất, gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng của con người hay không vì bị cáo dùng súng bắn trực tiếp vào người của bị hại và trúng vào vùng trọng yếu của cơ thể bị hại (thực tế bị hại T bị bắn trúng vào đầu và bụng). Hành vi của bị cáo tương tự theo án lệ số 47/2021/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 25/11/2021, đây là hành vi có dấu hiệu tội giết người.

10. Bản án hình sự phúc thẩm số 58/2022/HS-PT ngày 07/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với các bị cáo Hà Thế C, Lê Văn V do có kháng cáo của bị cáo C, bị cáo V; bị hại Lê Xuân Tr, bị hại Lê Văn Ng và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Đ

Nội dung hủy án 

(i) Bị cáo Hà Thế C bị Viện kiểm sát truy tố và cấp sơ thẩm đưa ra xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2017; trong đó bị cáo C gây thương tích cho 03 người là ông Lê Xuân Tr, Lê Văn V và Lê Văn Ng. Cấp sơ thẩm chỉ xác định ông Lê Xuân Tr, ông Lê Văn Ng là bị hại; nhưng không xác định ông Lê Văn V là bị hại do hành vi cố ý gây thương của bị cáo C cho ông Lê Văn V với thương tích gây 03% là có thiếu sót;

(ii) Bị cáo Lê Văn V bị Viện kiểm sát truy tố và cấp sơ thẩm đưa ra xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2017; với tỷ lệ gây thương tích mà bị cáo V gây cho cho ông C là 15% do vật tày có cạnh gây; căn cứ khoản 1 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự đây là trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại; căn cứ Điều 61, Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự, thì quyền và nghĩa vụ của bị cáo, bị hại có khác nhau; trong đó theo khoản 3 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự thì khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại còn có quyền Trình bày lời buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa; nhưng cấp sơ thẩm cũng không xác định ông Hà Thế C là bị hại trong vụ án là không đúng Bộ luật tố tụng hình sự; làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của ông C trong vụ án;

Do không xác định Lê Văn V, Hà Thế C là bị hại trong vụ án, thì không thể xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại theo Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015, để làm căn cứ xem xét và mất đi quyền kháng cáo cũng như quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại;

(iii) Tại phiên tòa, bị cáo V khai có cầm kéo trên tay đâm ông C; tại biên bản ghi lời khai ban đầu ngày 25/8/2020, lúc 21 giờ 45 phút, Lê Văn V khai “,….dùng cây kéo trên tay đâm vào ngực ông C, tôi cắn lỗ tai ông C đứt ra, phun lỗ tay xuống đất,..” (BL 07); ông C khai, “chính V cầm kéo đâm tôi, còn Ng dung leng đánh thẳng vào đầu tôi”; nó phù hợp với các vết thương trên cơ thể của ông C đó là cung mày phải kích thước (1.5 x 0.1)cm, sẹo mờ, phẳng, bờ thẳng 01%; sẹo ngực phải kích thước (1.2 x 0.3)cm màu hồng, phẳng bờ thẳng 01% đều do vật sắc gây nên (Theo bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 381/20/TgT ngày 12/10/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh An Giang đối với thương tích của Hà Thế C); các vết thương này phù hợp với hung khí mà V khai nhận là cầm trên tay cây kéo; thương tích này gây ra cùng thời điểm với hành vi gây thương tích 15% cho ông C; nhưng cấp sơ thẩm chỉ xem xét hành vi gây thương tích cho ông C 15% (cắn đứt lỗ tai), mà không xem xét 3% còn lại của ông C trong cùng vụ án này là chưa phù hợp pháp luật; không giải quyết triệt để trong vụ án; ảnh hưởng đến quyền lợi của ông C;

Ngoài ra, ông C có một vết thương Sẹo đỉnh trái kích thước (2.5 x 0.4)cm, màu hồng, phẳng, nham nhở, tỉ lệ 01% do vật tày gây nên; qua quá Tr điều tra và tại phiên tòa ông C, bà Đ khai là do Lê Văn Ng dùng cây leng đánh trúng đỉnh đầu,…cấp sơ thẩm cũng chưa điều tra làm rõ;

(iv) Quá trình điều tra bà Nguyễn Thị Đồng khai “Lúc giằng co V dùng cây kéo đâm tôi, tôi có yêu cầu xử lý hình sự,..” (BL 359, 366); tại phiên tòa bà Đ vẫn xác định thương tích của bà Đ do V đâm gây ra, còn ông Ng dùng tay đấm vào mặt, vào mồm gẫy răng tôi,… , phù hợp với vết thương trên cơ thể bà bà Đồng: Gãy răng số 2 hàm trên trái - đã nhổ, tỉ lệ 02% do vật tày gây nên. Sẹo vùng thượng vị kích thước (1.5 x 0.3)cm, bờ thẳng sắc gọn, tỉ lệ 01%; sẹo mu bàn tay trái kích thước (02 x 0.1)cm + (0.3 x 0.2)cm, bờ thẳng sắc gọn 01% đều do vật sắc nhọn gây nên. Tỉ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do tất cả thương tích gây nên là 04%; cấp sơ thẩm cũng chưa điều tra làm rõ, mà nhận định “Trong quá trình điều tra chưa xác định được người gây thương tích cho Đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục làm rõ để xử lý theo quy định pháp luật” là không chưa đánh giá hết tình tiết thật sự khách quan của vụ án; ảnh hưởng đến quyền lợi của bà Đ;

(v) Ông Lê Xuân Tr, sau khi bị ông C chém 03 nhát ngã xuống hàng rào lưới B40, thì khi ngồi dậy liền vòng ra phía sau khóa tay ông C lại; còn bị báo V khai, lúc giằng co với ông C, thì một tay V nắm tay cầm dao của ông C; còn Ng nắm chặt tay còn lại (tay bên trái); sau đó ông Tr, phía sau khóa tay ông C; chị Lê Thùy L khai tôi thấy “ Cha ruột tôi và chú Ng mỗi người giữ một tay ông C ,… lời khai của gia đình ông Tr có nhiều mâu thuẫn nhau, có liên quan đến hành vi gây thương tích trên người ông C, nhưng chưa được điều tra làm rõ để xem xét;

Góp ý