Tổng hợp 10 bản án hủy, sửa liên quan đến thủ tục nhập, tách vụ án

MỤC LỤC

1. Bản án hình sự phúc thẩm số 366/2022/HSPT ngày 20/5/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử về tội “Cưỡng đoạt tài sản” đối với các bị cáo Cư Chẩn P, Lỳ A T, Vương Văn S2, Sùng Seo L và Lý Văn L1 do có kháng nghị của Viện kiểm sát

2. Bản án hình sự phúc thẩm số 361/2021/HS-PT ngày 26/9/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử về tội “Giả mạo trong công tác” đối với bị cáo Huỳnh Văn C do có kháng cáo của bị cáo Huỳnh Văn C

3. Bản án hình sự phúc thẩm số 111/2020/HS-PT ngày 26/11/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử về tội “Tội đánh bạc” đối với các bị cáo T.V.C và V.V.T do có kháng nghị của Viện kiểm sát và kháng cáo của các bị cáo T.V.C và V.V.T

4. Bản án hình sự phúc thẩm số 670/2017/HS-PT ngày 27/12/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Ngô Văn T và các bị cáo khác do có kháng nghị của Viện kiểm sát và kháng cáo của bị cáo Ngô Văn T và các bị cáo khác

5. Bản án hình sự phúc thẩm số 407/2017/HS-PT ngày 16/8/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử về các tội “Gá bạc” và “Đánh bạc” đối với bị cáo Nguyễn Hoàng T và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo

6. Bản án hình sự phúc thẩm số 83/2017/HS-PT ngày 15/8/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Thành L và Châu Hoàng T do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thành L và Châu Hoàng T

7. Bản án hình sự phúc thẩm số 965/2023/HS-PT ngày 19/12/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử về các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” đối với bị cáo Nguyễn Lê G và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

8. Bản án hình sự phúc thẩm số 744/2023/HS-PT ngày 26/9/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Tội giết người” đối với bị cáo Trần Quốc H do có kháng cáo của bị cáo Trần Quốc H và đại diện hợp pháp của bị hại

9. Bản án hình sự phúc thẩm số 44/2023/HS-PT ngày 10/4/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” đối với các bị cáo Phan Văn V, Trần Thanh P (C3), Trần Hiếu N, Nguyễn Văn H và Nguyễn Yến N1 do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn

10. Bản án hình sự phúc thẩm số 100/2022/HS-PT ngày 06/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” đối với các bị cáo Nguyễn Hoài N và Tạ Trí Tr do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Hoài N và Tạ Trí Tr

 

1. Bản án hình sự phúc thẩm số 366/2022/HSPT ngày 20/5/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử về tội “Cưỡng đoạt tài sản” đối với các bị cáo Cư Chẩn P, Lỳ A T, Vương Văn S2, Sùng Seo L và Lý Văn L1 do có kháng nghị của Viện kiểm sát

Nội dung hủy án:

(i) Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy: Các bị cáo đã có hành vi giữ bị hại Lý A C2 một cách trái ý muốn liên tục trong khoảng thời gian từ 9 giờ ngày 21/9/2020 đến khoảng 22 giờ ngày 22/9/2020 tại nhiều địa điểm khác nhau. Quá trình giữ, khống chế bị hại Lý A C2, các bị cáo có hành vi ép, đe dọa và trực tiếp dùng vũ lực để bắt Lý A C2 phải trả tiền, viết giấy vay số tiền 1.500.000.000 đồng và yêu cầu người nhà C2 mang tiền đến trả cho các bị cáo. Thực tế sau khi nhận được số tiền là 522.471.000 đồng của gia đình anh C2 thì các bị cáo mới cho anh C2 về. Như vậy, hành vi của các bị cáo có dấu hiệu của tội “Cướp tài sản” theo quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự và tội “Bắt giữ người trái pháp luật” theo quy định tại Điều 157 Bộ luật hình sự.

Ngoài ra, trong vụ án này còn có các đối tượng là Sùng Seo P3, Thào Seo D1 và Chấu Minh C3 tham gia cùng các bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, nhưng chưa được điều tra làm rõ là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.

(ii) Do hành vi của các bị cáo bị kháng nghị xét xử về tội nặng hơn và cần nhập vụ án “Bắt giữ người trái pháp luật”, đồng thời thay đổi quyết định khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử sơ thẩm từ tội “Cưỡng đoạt tài sản” sang tội “Cướp tài sản” để điều tra lại theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên cần chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại theo thủ tục chung, đảm bảo việc giải quyết vụ án được toàn diện triệt để.

2. Bản án hình sự phúc thẩm số 361/2021/HS-PT ngày 26/9/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử về tội “Giả mạo trong công tác” đối với bị cáo Huỳnh Văn C do có kháng cáo của bị cáo Huỳnh Văn C

Nội dung hủy án 

Tại phiên tòa phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kon Tum đã có văn bản số 365/KSĐT-P2 ngày 17-9-2021 đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy Bản án hình sự sơ thẩm với lý do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Kon Tum phát hiện trong cùng thời điểm, bị cáo Huỳnh Văn C ngoài việc giả mạo 13 Giấy CNQSD đất như đã xét xử thì còn có giả mạo 03 Giấy CNQSD đất khác để lừa đảo chiếm đoạt tài sản và đã có Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với bị cáo Huỳnh Văn C về hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Giả mạo trong công tác và đã được phê chuẩn. Văn bản đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kon Tum và ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm là hợp lý, việc nhập vụ án để xét xử toàn bộ các lần phạm tội “Giả mạo trong công tác” trong cùng một vụ án là có lợi cho bị cáo, thuận lợi cho các Cơ quan tiến hành tố tụng làm sáng tỏ các hành vi phạm tội trong vụ án. Do có tình tiết mới, khách quan tại giai đoạn phúc thẩm nên Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm c khoản 1 Điều 355, khoản 1 Điều 358 của Bộ luật Hình sự, hủy Bản án hình sự sơ thẩm để điều tra theo quy định của pháp luật.

3. Bản án hình sự phúc thẩm số 111/2020/HS-PT ngày 26/11/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử về tội “Tội đánh bạc” đối với các bị cáo T.V.C và V.V.T do có kháng nghị của Viện kiểm sát và kháng cáo của các bị cáo T.V.C và V.V.T

Nội dung hủy án 

(i) Xét Quyết định kháng nghị phúc thẩm số: 04/QĐ-VKS-P7 ngày 03/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre đề nghị không xem xét trách nhiệm hình sự đối với lần đánh bạc xảy ra ngày 28/3/2019 và xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T.V.C, thấy rằng: Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre đã xử phạt bị cáo T.V.C 06 tháng tù về “Tội đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 04/2019/HS-ST ngày 08/3/2019. Đến ngày 28/3/2019, T.V.C lại thực hiện hành vi đánh bạc trái phép với số tiền dưới 5.000.000 đồng chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự; cũng tại thời điểm này Bản án hình sự sơ thẩm số: 04/2019/HS-ST ngày 08/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre còn trong thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp theo quy định tại Điều 337 của Bộ luật Tố tụng hình sự và chưa có hiệu lực pháp luật theo quy định tại Điều 343 của Bộ luật Tố tụng hình sự, nhưng Cơ quan T.V.C sát điều tra Công an huyện Thạnh Phú lại xác định T.V.C là người đã bị kết án về tội đánh bạc để ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự số: 68 ngày 12/11/2019 và khởi tố bị can theo Quyết định khởi tố bị can số: 80 ngày 12/11/2019 đối với T.V.C về “Tội đánh bạc; Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú đã ra Quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can số: 78/QĐ- VKS ngày 13/11/2019 phê chuẩn Quyết định khởi tố bị can số: 80 ngày 12/11/2019 của Cơ quan T.V.C sát điều tra Công an huyện Thạnh Phú. Đến ngày 03/10/2019, bị cáo T.V.C tiếp tục đánh bạc trái phép nên tiếp tục bị Cơ quan T.V.C sát điều tra Công an huyện Thạnh Phú ra Quyết định khởi tố bị can số: 05 ngày 08/01/2020 và ra Quyết định nhập vụ án số: 01 ngày 20/01/2020; Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú ra Quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can số: 05/QĐ-VKS ngày 14/01/2020 phê chuẩn Quyết định khởi tố bị can số: 05 ngày 08/01/2020 của Cơ quan T.V.C sát điều tra Công an huyện Thạnh Phú và đã ra Quyết định truy tố đối với bị cáo T.V.C về “Tội đánh bạc” theo Cáo trạng số: 26/CT-VKS ngày 12/6/2020 trong đó có căn cứ vào Quyết định khởi tố bị can số: 80 ngày 12/11/2019 của Cơ quan T.V.C sát điều tra Công an huyện Thạnh Phú; Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú đã kết án bị cáo T.V.C về “Tội đánh bạc” theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 30/2020/HSST ngày 06/8/2020 trong đó có hành vi đánh bạc xảy ra vào ngày 28/3/2019. Xét thấy các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã quy kết bị cáo T.V.C phạm “Tội đánh bạc” đối với hành vi đánh bạc xảy ra vào ngày 03/10/2019 là có căn cứ pháp luật, nhưng quy kết bị cáo T.V.C phạm “Tội đánh bạc” đối với hành vi đánh bạc xảy ra vào ngày 28/3/2019 là chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Vì vậy, cần hủy một phần Bản án hình sự sơ thẩm số: 30/2020/HSST ngày 06/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú đối với hành vi đánh bạc của T.V.C xảy ra vào ngày 28/3/2019; đình chỉ vụ án đối với Quyết định khởi tố bị can số: 80 ngày 12/11/2019 của Cơ quan T.V.C sát điều tra Công an huyện Thạnh Phú về hành vi đánh bạc của T.V.C xảy ra vào ngày 28/3/2019. Do bị cáo T.V.C được giảm bớt trách nhiệm hình sự nên có căn cứ để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo T.V.C. Vì vậy, Quyết định kháng nghị phúc thẩm số: 04/QĐ-VKS-P7 ngày 03/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre là có căn cứ pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

(ii) Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy các bị cáo là người thành niên, có năng lực trách nhiệm hình sự; mặc dù đã bị kết án về “Tội đánh bạc” đang chấp hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, đang trong thời gian thử thách lại tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc trái phép dưới hình V.V.T đá gà qua mạng Internet được thua bằng tiền, điều đó chứng tỏ các bị cáo có ý V.V.T xem thường pháp luật, khó cải tạo giáo T.V.Dc; các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, vì động cơ tư lợi, mục đích thu lợi bất chính, hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng xã hội, gây khó khăn về kinh tế cho chính bản thân và gia đình người đánh bạc, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tệ nạn, tội phạm khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương. Các bị cáo đã có 01 tiền án về “Tội đánh bạc” nên không đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định của Nghị quyết số: 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng hình phạt tù không cho các bị cáo hưởng án treo là có căn cứ pháp luật, vì vậy kháng cáo yêu cầu được hưởng án treo của các bị cáo là không phù hợp với quy định của pháp luật nên không được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận. Mặt khác, đối với bị cáo V.V.T tại phiên tòa phúc thẩm trình bày có thêm con nhỏ sinh năm 2020, tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo V.V.T 06 tháng tù theo mức khởi điểm của khung hình phạt được áp dụng tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là đã có xem xét giảm nhẹ cho bị cáo. Xét thấy quyết định của Bản án sơ thẩm về mức hình phạt và biện pháp chấp hành hình phạt đối với bị cáo V.V.T có căn cứ và đúng pháp luật. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy không có căn cứ để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và thay đổi biện pháp chấp hành hình phạt cho bị cáo nên không chấp nhận kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo của bị cáo V.V.T, giữ nguyên Bản án sơ thẩm là có căn cứ pháp luật. Đối với bị cáo T.V.C, do cấp phúc thẩm xác định bị cáo chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm của “Tội đánh bạc” theo Quyết định khởi tố bị can số: 80 ngày 12/11/2019; Bản Kết luận điều tra số: 26 ngày 13/5/2020 của Cơ quan T.V.C sát điều tra Công an huyện Thạnh Phú; Cáo trạng số: 26/CT-VKS ngày 12/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú và Bản án số: 30/2020/HS-ST ngày 06/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú đối với hành vi đánh bạc xảy ra vào ngày 28/3/2019, vì vậy Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy có căn cứ để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên chấp nhận kháng cáo, sửa Bản án sơ thẩm, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo T.V.C là có căn cứ pháp luật.

4. Bản án hình sự phúc thẩm số 670/2017/HS-PT ngày 27/12/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Ngô Văn T và các bị cáo khác do có kháng nghị của Viện kiểm sát và kháng cáo của bị cáo Ngô Văn T và các bị cáo khác

Nội dung hủy án 

(i) Như vậy, hành vi mua bán ma túy của Đắc H, Q, Trọng H và hành vi mua bán ma túy giữa Thu T, Hoàng N với Trọng H là độc lập với hành vi phạm tội của các bị cáo Văn T, M, xảy ra sau thời điểm khởi tố vụ án mua bán ma túy đối với Văn T, M, tại địa điểm khác, không liên quan gì đến vụ án của Văn T, M và các bị cáo khác bị khởi tố theo Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 315-01 ngày 02/7/2014. Căn cứ Điều 100, 104 Bộ luật tố tụng hình sự thì hành vi phạm tội của Đắc H, Q, Trọng H phải có quyết định khởi tố vụ án riêng thành vụ án khác và nếu cần nhập vụ án thì căn cứ Điều 117 Bộ luật tố tụng hình sự để ra quyết định nhập vụ án vào vụ án đã khởi tố vụ án đối với Văn T, M. Tuy nhiên, cơ quan điều tra lấy Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 315-01 ngày 02/7/2014 làm căn cứ để khởi tố bị can và tiến hành các hoạt động điều tra khác đối với Đắc H, Q, Trọng H trong cùng vụ án với Văn T, M và các bị cáo khác là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010 và điểm c khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự nên phải hủy một phần bản án sơ thẩm về trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Đắc H, Q, Trọng H để điều tra lại. Việc điều tra lại hành vi mua bán ma túy của Trọng H có liên quan đến Thu T và Hoàng N nên phải hủy một phần bản án sơ thẩm về trách nhiệm hình sự đối với Thu T và Hoàng N có liên quan đến hành vi mua bán ma túy với Trọng H, đồng thời lấy kết quả số lượng ma túy mà Thu T và Hoàng N mua bán với Thúy N đã được xác định là 71,0062g heroin (đã giám định hàm lượng) cộng với khối lượng ma túy mà Thu T, Hoàng N mua của Trọng H khi điều tra lại để xác định trách nhiệm hình sự của Thu T và Hoàng N trong cùng vụ án.

Vì vậy, hủy một phần bản án sơ thẩm đối với các bị cáo Đắc H, Q, Trọng H, Thu T, Hoàng N về phần trách nhiệm hình sự và xử lý vật chứng để điều tra lại.

(ii) Như vậy, có việc Đắc H, Q mua bán ma túy với Lý T và Văn H. Qua lời khai của Đắc H, Q thì có thể xác minh được lai lịch, địa chỉ của Lý T và Văn H. Cơ quan điều tra không tiến hành xác minh lai lịch của Lý T và Văn H theo lời khai của Đắc H để xử lý các đối tượng này là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm. Cấp sơ thẩm cũng không căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010 và điểm d khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự để trả hồ sơ để điều tra bổ sung về nội dung này là có thiếu sót.

5. Bản án hình sự phúc thẩm số 407/2017/HS-PT ngày 16/8/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử về các tội “Gá bạc” và “Đánh bạc” đối với bị cáo Nguyễn Hoàng T và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo

Nội dung hủy án 

Xét thấy, việc bị cáo T khai báo có quốc tịch nước ngoài xuất trình đính kèm giấy tờ hộ chiếu (bản sao công chứng) và có đăng ký kết hôn với bị cáo Y là tình tiết mới chưa được Cơ quan điều tra làm rõ. Vấn đề này có liên quan đến thẩm quyền xét xử cũng như đường lối xử lý đối với các bị cáo. Mặt khác, cũng cần làm rõ về số tiền đánh bạc của từng bị cáo và do Nguyễn Thanh J đã bị bắt nên cần thiết điều tra xét xử chung cùng 01 vụ án để đảm bảo việc xét xử được toàn diện khách quan, do đó cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm như lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa để điều tra xét xử lại theo thủ tục chung.

6. Bản án hình sự phúc thẩm số 83/2017/HS-PT ngày 15/8/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Thành L và Châu Hoàng T do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thành L và Châu Hoàng T

Nội dung hủy án 

(i) Ngày 07/4/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân biên, tỉnh Tây Ninh đã ra Quyết định số 02/QĐ-CQCSĐT nhập hai vụ án trên, gọi chung là vụ án “Cố ý gây thương tích” xảy ra ngày 23/01/2017 tại ấp Thạnh Tân, xã Thạnh Tây, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh.

Lý do nhập vụ án: Do cùng bị can thực hiện, cần thiết cho việc điều tra.

Tại khoản 1 Điều 117 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định: Cơ quan điều tra có thể nhập để tiến hành điều tra trong cùng một vụ án những trường hợp bị can phạm nhiều tội, nhiều bị can cùng tham gia một tội phạm hoặc cùng với bị can còn có những người khác che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm.

Phạm nhiều tội là trường hợp người phạm tội đã phạm những tội khác nhau được quy định trong Bộ luật Hình sự mà những tội này chưa hết thời hiệu truy c u trách nhiệm hình sự và cũng chưa bị đưa ra xét xử, kết án lần nào nay đưa ra xét xử cùng một lần.

Trong bản án sơ thẩm, chỉ có Phạm Văn H phạm tội ở hai vụ án cùng một tội danh “Cố ý gây thương tích”, không thuộc trường hợp phạm nhiều tội. Ngoài bị cáo H ra còn có Nguyễn Thành L, Châu Hoàng T phạm tội với vai trò đồng phạm với H, L và T phạm tội không có đồng phạm với nhau.

Do đó, quyết định nhập vụ án trên là chưa đúng quy định tại khoản 1 Điều 117 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có bổ sung quy định được nhập vụ án khi “bị can phạm tội nhiều lần” tại điểm b khoản 1 Điều 170 nhưng Bộ luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, hiện chưa có hướng dẫn thi hành.

(ii) Mặt khác, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo Phạm Văn H, Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng điểm c (phạm tội đối với nhiều người) khoản 1 Điều 104 của Bộ luật Hình sự nhưng lại áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội nhiều lần” tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự là không đúng. Từ đó, dẫn đến khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo H 02 năm tù, bị cáo L và T, mỗi bị cáo 01 năm tù là chưa xem xét vai trò của mỗi bị cáo trong vụ án để phân hóa trách nhiệm hình sự.

7. Bản án hình sự phúc thẩm số 965/2023/HS-PT ngày 19/12/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử về các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” đối với bị cáo Nguyễn Lê G và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

Nội dung hủy án 

(i) Bản án sơ thẩm xác định các ông, bà Lê Duy T3, Lê Thị S, Nguyễn Thị T2, Võ Tiến V, Lê Văn L, Phạm Lê Thái N4, Nguyễn Thị O, Lê Thị B1, Nguyễn Thị Thu H8, Lê Thị H4, Nguyễn Thị B2, Lê Trần D1, Đỗ Tiến H5, Nguyễn Thị H6, ông Trần Bá Đ (là đại diện hợp pháp cho anh Trần Bá Đ1) và một số người khác được được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Tại phần quyết định của Bản án sơ thẩm đã tuyên: Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền yêu cầu Lê Thị D2, Trần Đăng H9 và Đàm Thị Q trả lại số tiền đã nhận theo hợp đồng hoặc yêu cầu Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Thanh Hóa xem xét giải quyết tin báo tố giác tội phạm việc nhận tiền của Lê Thị D2, Trần Đăng H9 và Đàm Thị Q theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hoặc khởi kiện bằng vụ án dân sự khác. Thấy rằng những người này trực tiếp bị thiệt hại bởi hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên phải xác định họ là người bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 62 BLTTHS mới chính xác. Bản án sơ thẩm xác định họ là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là không đúng pháp luật dẫn đến việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại chưa được giải quyết trong cùng vụ án.

(ii) Trong quá trình điều tra, những người bị thiệt hại nêu trên đều khai D2, H9 đưa ra thông tin gian dối, cung cấp hồ sơ quy hoạch tại các mặt bằng trên địa bàn thành phố T, khẳng định lấy được đất như thỏa thuận, còn dẫn những người nộp tiền đến xem mặt bằng. Cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm chưa điều tra làm rõ hành vi nhận tiền của D2, H9 có yếu tố đồng phạm giúp sức cho các bị cáo chiếm đoạt tiền của các bị hại hay không nhưng lại tách các hành vi của các đối tượng trên để giải quyết khi có tin báo tố giác tội phạm là trái quy định về tách vụ án, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của những người bị thiệt hại trong vụ án này.

(iii) Trong vụ án này có 31 bị hại và 47 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bị chiếm đoạt số tiền 96.853.250.000 đồng là số tiền đặc biệt lớn. Quá trình điều tra chỉ có duy nhất lời khai của bị cáo G về việc sử dụng số tiền trên để tiêu xài cá nhân và trả nợ, không có tài liệu nào khác thể hiện việc bị cáo G đã sử dụng số tiền nêu trên để trả nợ ai, tiêu xài vào việc gì để có biện pháp thu hồi tài sản bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của những người bị hại.

Những thiếu sót nêu trên Toà án cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Vì vậy cần huỷ bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa để điều tra lại vụ án đối H1, H9, D2 có vai trò đồng phạm với các bị cáo G, Q về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo đúng quy định như quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao Hà Nội.

8. Bản án hình sự phúc thẩm số 744/2023/HS-PT ngày 26/9/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Tội giết người” đối với bị cáo Trần Quốc H do có kháng cáo của bị cáo Trần Quốc H và đại diện hợp pháp của bị hại

Nội dung hủy án 

(i) Ngoài các hành vi của Đoàn Quang T3, Dương Hào P và Trần Quốc H nêu trên, các chứng cứ trong hồ sơ vụ án còn thể hiện trước khi thực hiện hành vi giết bị hại Lưu Hoài T1 thì T3 có sự bàn bạc, phân công các đối tượng Nguyễn Thanh Đ (Lúa), Nguyễn Hồng H3, Lê Hoài T5 (T), Thành Cổ M, T4 để cùng thực hiện hành vi phạm tội giết bị hại Lưu Hoài T1 và T3 cùng các đối tượng này đã thực hiện theo đúng sự bàn bạc, phân công của T3. Như vậy, các đối tượng Nguyễn Thanh Đ (L), Nguyễn Hồng H3, Lê Hoài T5 (T), Thành Cổ M, T4 có tham gia giết bị hại cùng T3 với vai trò đồng phạm giúp sức. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công án tỉnh Bến Tre đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với T3, P và H. Đối với Đoàn Quang T3 và Dương Hào P sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã bị bệnh tâm thần, cơ quan điều tra áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh và ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, đồng thời tách vụ án đối với các bị can này để xử lý sau là có căn cứ. Tuy nhiên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công án tỉnh Bến Tre không ra quyết định khởi tố bị can đối với các đối tượng Nguyễn Thanh Đ (Lúa), Nguyễn Hồng H3, Lê Hoài T5 (T), Thành Cổ M, T4 là không đúng quy định của pháp luật.

(ii) Mặt khác, trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã cho bị cáo H và Kim Thành N4 (người làm thuê của T3, là người trực tiếp lại xe chở nhóm này về S, sau đó hàng ngày 12/4/2022 đến ngày 14/4/2022 nấu ăn, dọn cơm phục vụ nhóm này) đều khai từ ngày 12/4/2022 đến ngày xảy ra vụ án 14/4/2022 thì các đối tượng tên T4, Nguyễn Thanh Đ (Lúa), Nguyễn Hồng H3, Lê Hoài T5 (T) tụ tập tại nhà của T3, ăn ở tại đó (BL 319- 323 và 680-684), kết quả cả bị cáo H và Kim Thành N4 đều nhận dạng đúng các đối tượng này tham gia với T3 đi đâm bị hại T1. Theo Biên bản nhận dạng, các đối tượng có lai lịch như sau: Nguyễn Thanh Đ (Lúa), sinh năm 1993, nơi thường trú: 266/3/9 Chợ L, Phường A, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Lê Hoài T5 (T), sinh năm 1994, nơi thường trú: Ấp S. xã V, huyện T, tỉnh An Giang; Nguyễn Hồng H3, sinh năm 1992, nơi thường trú: 476, khóm G, phường G, thành phố T, tỉnh Trà Vinh. Như vậy, có căn cứ xác định các đối tượng tượng Nguyễn Thanh Đ (Lúa), Nguyễn Hồng H3, Lê Hoài T5 (T), Thành Cổ M, T4 có địa chỉ rõ ràng, nhưng Cơ quan điều tra không triệu tập các đối tượng nêu trên để điều tra làm rõ. Trong quá trình điều tra, bị cáo H có khai H dùng điện thoại có số 0767.867.778 để liên lạc với đối tượng T4 qua số điện thoại 0907.198.492 (BL 279), nhưng cơ quan điều tra cũng chưa tiến hành xác minh tại các tổ chức kinh doanh mạng viễn thông để làm rõ lời khai này của H là thiếu sót.

(iii) Bộ luật Tố tụng Hình sự đã quy định rõ trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, nhằm đảm bảo việc phát hiện, xác định tội phạm và người phạm tội được chính xác, xử lý nghiêm minh, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đồng thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của công dân. Việc tách vụ án hình sự để điều tra chỉ thực hiện trong những trường hợp cần thiết khi không thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm và nếu việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không thu thập chứng cứ để xử lý các đối tượng tên là T4, Nguyễn Thanh Đ (Lúa), Nguyễn Hồng H3, Lê Hoài T5 (T), Thành Cổ mộ mà lại ban hành quyết định tách vụ án Đoàn Quang T3 cùng đồng phạm giết người, trong đó các các đối tượng này để điều tra sau là có dấu hiệu bỏ lọt người phạm tội.

9. Bản án hình sự phúc thẩm số 44/2023/HS-PT ngày 10/4/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” đối với các bị cáo Phan Văn V, Trần Thanh P (C3), Trần Hiếu N, Nguyễn Văn H và Nguyễn Yến N1 do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn           

Nội dung hủy án 

Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H: Qua xem xét nội dung vụ án, ngoài 10 lần các bị cáo thực hiện trộm tài sản là cây mai của các bị hại, các bị cáo còn thực hiện hành vi chiếm đoạt 25 cây mai khác nhưng chưa tìm được chủ sở hữu, có tổng giá trị tài sản là 138.700.000đồng. Cơ quan điều tra tách ra để giải quyết riêng về hành vi chiếm đoạt 25 cây mai của các bị cáo là không đúng quy định tại khoản 2 Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bởi, việc tách vụ án sẽ làm ảnh hưởng đến sự thật khách quan, toàn diện của vụ án, là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố dụng mà cấp phúc thẩm không khắc phục được. Do đó, cần hủy Bản án sơ thẩm số 02/2023/HS-ST ngày 04 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Đ1, giao hồ sơ vụ án về cấp sơ thẩm để điều tra, truy tố, xét xử lại theo thủ tục chung như đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp. Do án sơ thẩm bị hủy nên yêu cầu kháng cáo của bị cáo và phần trình bày quan điểm của người bào chữa bào chữa cho bị cáo không được xem xét tại phiên tòa phúc thẩm.

10. Bản án hình sự phúc thẩm số 100/2022/HS-PT ngày 06/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” đối với các bị cáo Nguyễn Hoài N và Tạ Trí Tr do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Hoài N và Tạ Trí Tr

Nội dung sửa án 

Xét kháng cáo của các bị cáo, HĐXX thấy rằng; tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản án hình sự sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng đã xét xử. Các bị cáo không thắc mắc nội dung bản án sơ thẩm chỉ xin được hưởng án treo; khi quyết định hình phạt bản án sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS 2015 cho các bị cáo, đối với bị cáo N nộp tiền để khắc phục hậu quả nên áp dụng khoản 2 Điều 51 BLHS 2015; bị cáo Tr phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 để xử phạt bị cáo N 09 tháng tù, xử phạt bị cáo Tr 06 tháng tù là phù hợp. Tuy nhiên, cũng cần xem xét đến tình tiết các bị cáo phạm tội vào năm 2018 tại thành phố Bảo Lộc và huyện Bảo Lâm. Hành vi của các bị cáo đã được Toà án nhân dân thành phố Bảo Lộc xét xử tại Bản án hình sự sơ thẩm số 65/2019/HS-ST ngày 25/6/2019, nhưng khi xử lý hình sự, Cơ quan điều tra đã không nhập vụ án để cùng giải quyết mà tách ra thành hai vụ án độc lập để truy tố, xét xử các bị cáo cùng một tội danh cùng thời điểm phạm tội là gây bất lợi cho các bị cáo. Hiện tại, các bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 65/2019/HS-ST ngày 25/6/2019 của Toà án nhân dân thành phố Bảo Lộc nên trong vụ án này không xem là có tiền án, cần áp dụng thêm cho các bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 51 BLHS 2015. Tại phiên toà phúc thẩm, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, áp dụng Điều 65 BLHS 2015 cho các bị cáo hưởng án treo và áp dụng thời gian thử thách theo quy định pháp luật. HĐXX xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ; đảm bảo nguyên tắc có lợi cho các bị cáo, không cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung.