MỤC LỤC
1. Bản án hình sự phúc thẩm số 465/2022/HS-PT ngày 14/11/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” đối với các bị cáo Phạm Anh T và đồng phạm do có kháng nghị của Viện kiểm sát
Nội dung hủy án:
(i) Về hành vi phạm tội của bị cáo Lê Thanh L, Phạm Anh T: quá trình điều tra và tại phiên toà sơ thẩm chưa xác định rõ được từng khoản vay gốc mà các bị cáo Lê Thanh L, Phạm Anh T cho Lý Bá Đ vay cụ thể là những lần nào, số tiền vay đối với từng lần, số tiền lãi được trả đối với từng khoản vay là bao nhiêu, số tiền lãi thu lợi bất chính trên từng khoản vay là bao nhiêu để xác định đúng các tình tiết khách quan của hành vi phạm tội, đồng thời dùng làm căn cứ xác định bị cáo Lê Thanh L, Phạm Anh T có phạm tội hai lần trở lên hay không. Việc cấp sơ thẩm gộp tất cả các khoản vay có cùng mức lãi suất lại thành một (ngày tháng vay khác nhau), dùng số tiền trả lãi từng lần làm căn cứ xác định bị cáo Phạm Anh T phạm tội nhiều lần trong khi số tiền lãi mỗi lần Đ trả cho bị cáo T là trả cho nhiều khoản vay trước đó (không phải trả cho một khoản vay) là chưa chính xác.
(ii) Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Phạm Anh T và Nguyễn Trung H khai trong quá trình điều tra vụ án ông Phạm Anh T7 (anh trai bị cáo T) có nộp 332.200.000 đồng khắc phục hậu quả cho Phạm Anh T; Nguyễn Trung H có nộp 7.900.000 đồng để khắc phục hậu quả. Giấy nộp tiền bản chính đã nộp cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận B nhưng trong hồ sơ vụ án không có bản chính mà chỉ có bản photocopy. Bản Cáo trạng số 51/CT-VKSBTh ngày 18/4/2022, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh cũng xác định các bị cáo Phạm Anh T nộp 332.200.000 đồng, Nguyễn Trung H nộp 7.900.000 đồng, Lê Thanh L nộp 46.000.000 đồng khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án cũng không có bản chính các giấy nộp tiền như các bị cáo trình bày.
(iii) Ngoài ra, phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án từ ngày 26/7/2022 đến ngày 28/7/2022 nhưng biên bản nghị án của Hội đồng xét xử sơ thẩm ghi thời gian bắt đầu nghị án vào lúc 16 giờ 45 phút ngày 26/8/2022, thời gian kết thúc là 09 giờ 00 phút ngày 28/7/2022 là không đúng về trình tự thời gian.
2. Bản án hình sự phúc thẩm số 52/2022/HS-PT ngày 14/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” đối với các bị cáo Võ Tư Th và Nguyễn Thị T do có kháng cáo của các bị cáo Võ Tư Th, Nguyễn Thị T và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Nội dung hủy án:
(i) Hồ sơ vụ án thể hiện một số lời khai, bản tự khai của các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nhiều mâu thuẫn nhưng chưa được cấp sơ thẩm điều tra làm rõ và tiến hành đối chất giữa bị cáo Võ Tư Th với anh Phùng Lê H, giữa bị cáo Nguyễn Thị T với anh Phùng Lê H và ông Sầm Văn N để xác định số tiền lãi suất các bị cáo thu lợi trái pháp luật.
(ii) Các tệp (file) ghi âm do anh Phùng Lê H cung cấp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức, chỉ kết luận giọng nói của các bị cáo Nguyễn Thị T và Võ Tư Th, còn 02 giọng nói (nam 1) và (nam 2) chưa kết luận là giọng nói của ai. Đối với USB chứa nội dung ghi âm hội thoại giữa bị cáo Võ Tư Th và anh Phùng Lê H do bị cáo Th cung cấp mới được dịch một phần thành văn bản cần phải kiểm tra toàn bộ nội dung và giám định giọng nói là của ai, để xem xét có liên quan đến vụ án hay không.
(iii) Đối với số tiền 630.000 đồng ngày 06-9-2021, ông Y Vi S nộp vào tài khoản của Kho bạc Nhà nước huyện T với nội dung ông Sầm Văn N nộp trả tiền trong vụ án cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự và tài liệu này có trong hồ sơ vụ án nhưng chưa được điều tra làm rõ có liên quan gì đến vụ án với các bị cáo Nguyễn Thị T và Võ Tư Th hay không.
(iv) Quá trình điều tra, truy tố và xét xử cấp sơ thẩm căn cứ vào số tiền 300.000.000 đồng các bị cáo Võ Tư Th và Nguyễn Thị T đã nhận (bút lục số 340 và 342) để làm căn cứ xác định số tiền lãi suất thu lợi trái pháp. Tại “GIẤY THỎA THUẬN NHẬN TRẢ NỢ” ngày 18-5-2020 (bút lục số 133b), ghi nhận nội dung: “Ngoài ra vào ngày 07-01-2018 ông N có vay của bà T và Th với số tiền 110.000.00đ (Một trăm mười triệu đồng) và thế chấp sổ của ông N (đứng tên con trai và con dâu Sầm Công I và Dương Thị H) cho bà T và anh Th...”; “HÓA ĐƠN BÁN HÀNG) ngày 20 -5-2020 (bút lục số 124), ghi nhận nội dung: “... ông H trả nợ cho ông N số tiền là: 300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng chẵn) còn lại: 140.000.000đ (Một trăm bốn mươi triệu đồng trả tiếp và lấy sổ QSD đất) (của ông N)”. Như vậy, các bị cáo hướng tới tổng số tiền lãi suất là 330.000.000 đồng. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm kết luận số tiền 300.000.000 đồng các bị cáo Võ Tư Th và Nguyễn Thị T nhận ngày 20-5-2020 là tổng số tiền lãi suất để làm căn cứ xác định số tiền lãi suất các bị cáo thu lợi bất chính là không đúng pháp luật.
(v) Về xử lý vật chứng, bản án sơ thẩm quyết định không đúng quy định của Nghị quyết số: 01/2021/NQ-HĐTP ngày 20-12-2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 201 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án hình sự về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”, cụ thể phần nhận định của bản án xác định số tiền 300.000.000 đồng ông Sầm Văn N và anh Phùng Lê H trả vào ngày 20-5-2020 là số tiền lãi suất, nhưng tại phần quyết định của bản án lại xác định trong số tiền đó có 110.000.000 đồng tiền gốc trong khi chưa làm rõ cũng như không có tài liệu nào để xác định số tiền 300.000.000 đồng có bao nhiêu tiền gốc, bao nhiêu tiền lãi để từ đó mới có căn cứ xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp đúng quy định của pháp luật.
(vi) Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử của cấp sơ thẩm có một số sai sót liên quan hoạt động tố tụng cần phải được khắc phục cho đúng theo quy định của pháp luật như: Xử lý vật chứng không đúng theo quy định tại Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; lấy lời khai là chưa đúng quy định của pháp luật đối với bà Triệu Thị X là người dân tộc thiểu số; Kết luận điều tra và cáo trạng có xử lý vật chứng đối với 01 thẻ nhớ đã thu giữ nhưng biên bản tạm giữ đồ vật lại ghi là 01 USB là có sự mâu thuẫn; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất liên quan đến vụ án cơ quan điều tra đã trả cho người liên quan nhưng để thực hiện việc chuyển nhượng là không đúng pháp luật và đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ra khỏi hồ sơ vụ án.
(vii) Ngày 21-10-2021 và ngày 24-3-2022 Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức đã ban hành các Quyết định số: 07/2021/HSST-QĐ và số: 02/2022/HSST-QĐ về việc trả hồ sơ điều tra bổ sung để xác định cụ thể số tiền gốc và tiền lãi suất liên quan đến vụ án. Song, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức chưa điều tra làm rõ, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức giữ nguyên nội dung truy tố tổng số tiền lãi các bị cáo đã nhận là 300.000.000 đồng làm căn cứ xác định số tiền lãi các bị cáo thu lợi trái pháp luật. Bản án sơ thẩm số: 25/2022/HS-ST ngày 02 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức kết án tổng số tiền lãi các bị cáo Nguyễn Thị T và Võ Tư Th thu lợi trái pháp luật 248.043.836 đồng là chưa có căn cứ vững chắc.
3. Bản án hình sự phúc thẩm số 343/2022/HS-PT ngày 05/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” đối với bị cáo Nguyễn Đức T do có kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Nội dung hủy án:
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” là đúng người đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bà Nguyễn Thị H kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm điều chỉnh lại lãi suất theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Cấp sơ thẩm mặc dù đã có tính toán lại lãi suất theo quy định của pháp luật nhưng lại nhận định do những người vay tiền không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền đã thu vượt quá 20% lãi suất theo quy định pháp luật nên không xem xét, giải quyết là không đúng. Vì việc trả lại số tiền thu lợi bất chính nêu trên là biện pháp tư pháp theo quy định tại Điều 46, 47 Bộ luật hình sự, bắt buộc phải trả lại cho người vay tiền theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2021/NQ-HĐTP ngày 20/12/2021 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 201 Bộ luật hình sự, không phải khi nào đương sự có yêu cầu mới được trả lại. Do cấp sơ thẩm chưa xem xét, giải quyết nên cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, cần hủy một phần bản án sơ thẩm về việc áp dụng các biện pháp tư pháp để xét xử lại ở cấp sơ thẩm do có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật theo điểm đ khoản 2 Điều 358, điểm c khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.
4. Bản án hình sự phúc thẩm số 37/2022/HS-PT ngày 24/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” đối với bị cáo T và đồng phạm do có kháng nghị của Viện kiểm sát
Nội dung hủy án:
(i) Bị cáo T và đối tượng DVT (chồng bị cáo T) còn có hành vi cho vay với lãi suất 20%/01 tháng, tương đương 240%/1 năm và thu lợi được khoảng 26.000.000 đồng, ngoài ra còn có một số người cho vay chưa xác minh được, hành vi này có dấu hiệu của tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” quy định tại Điều 201 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Cơ quan điều tra Công an thành phố Thủ Đức không có quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với hành vi này nhưng lại ban hành quyết định tách vụ án hình sự số 20 ngày 13/7/2021 để xử lý riêng là không có căn cứ, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.
(ii) Đồng thời, việc tách vụ án hình sự cũng không đúng quy định tại khoản 2 Điều 170, khoản 2 Điều 242 Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 3 Điều 29 Thông tư liên tịch số 04 ngày 19/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao – Bộ Công an – Bộ Quốc phòng. Do hành vi cho vay lãi nặng là tiền đề, nguyên nhân xuất phát dẫn đến hành vi phạm tội cướp tài sản của bị cáo. Việc tách vụ án gây ảnh hưởng đến việc xét xử toàn diện vụ án nên Hội đồng xét xử xét thấy không thể tách hành vi cho vay lãi nặng thành vụ án riêng biệt.
(iii) Ngoài ra, bị cáo T và DVT có hành vi dùng hình ảnh khỏa thân của những người vay tiền (trong vụ án này cụ thể là DNHY,…) và dùng lời lẽ khủng bố tinh thần, đe dọa người vay tiền, sau đó đưa lên mạng xã hội (zalo Bảo Bảo, facebook Nguyen Trang, facebook Đặng Toàn) để ép buộc họ trả tiền vay là có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Hành vi này chưa được điều tra làm rõ ở cấp sơ thẩm.
Do đó, quá trình điều tra, truy tố đối với các bị cáo T, H có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 358 Bộ luật Tố tụng hình sự.
5. Bản án hình sự phúc thẩm số 18/2021/HSPT ngày 28/01/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xét xử về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” đối với bị cáo BVH do có kháng cáo của bị cáo BVH
Nội dung hủy án:
Xét thấy, sau khi khởi tố bị can Điều tra viên chưa tiến hành điều tra, xác minh để xác định bị can đang ở đâu, có liên lạc được theo số điện thoại gia đình cung cấp hay không là chưa đủ căn cứ để xác định bị can bỏ trốn. Mặt khác, tại hồ sơ thể hiện ông NTT và ông NPH là cán bộ của Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thanh Hóa tiến hành lập 03 biên bản xác minh vào các ngày 15/5/2019, 24/7/2019 và 25/7/2019 nhưng bà QTO và ông NĐT đều xác định ông NTT và ông NPH chỉ đến xác minh có 01 lần vào ngày 25/7/2019. Nội dung 03 biên bản xác minh nội dung giống nhau, đều thể hiện BVH đi khỏi nơi cư trú khoảng 02 tháng (Trong khi thời gian xác minh biên bản đầu tiên từ 15/5 đến biên bản cuối cùng 25/7/2019 là cách nhau hơn 02 tháng). Việc Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thanh Hóa ban hành quyết định truy nã bị can cùng ngày quyết định khởi tố bị can có dấu hiệu vi phạm khoản 1 Điều 2, khoản 1 Điều 4 TTLT số 13/2012/TTLT-BCA-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 09/10/2012. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, những tài liệu, chứng cứ mới do luật sư và nhân chứng cung cấp cần được điều tra, thẩm định tính xác thực và có căn cứ nên không thể bổ sung ở giai đoạn phúc thẩm. Do vậy thống nhất với quan điểm của đại diện VKS, chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đề nghị của các luật sư hủy bảnán sơ thẩm để điều tra, xác minh có hay không hành vi bỏ trốn của bị cáo BVH và việc truy nã của Cơ quan CSĐT Công an thành phố đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật hay chưa là cần thiết để đảm bảo việc xử lý bị cáo đúng quy định của pháp luật.
6. Bản án hình sự phúc thẩm số 09/2022/HSPT ngày 05/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum xét xử về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” đối với bị cáo Phạm Văn Đ do có kháng nghị của Viện kiểm sát
Nội dung sửa án:
Xét thấy, trong vụ án bị cáo Vũ Mạnh T vừa là người chủ mưu, khởi xướng, vừa là người cung cấp nguồn vốn cho vay, Ph tiện (xe mô tô, điện thoại), hướng dẫn cho bị cáo Đ cách thức hoạt động cho vay nặng lãi và rủ bị cáo từ Thh Hóa vào Kon Tum thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo Đ tham gia vai trò là người thực hành (trực tiếp thực hiện việc cho vay và Th2 tiền đưa lại cho T). Số tiền bị cáo T phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn so với bị cáo Đ. Như vậy, với vai trò, tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo T cao hơn, nguy hiểm hơn so với bị cáo Đ.
Tuy nhiên, cấp sơ thẩm áp dụng “hình phạt tiền” đối với bị cáo T là hình phạt nhẹ hơn so với bị cáo Đ hình phạt “Cải tạo không giam giữ” nặng hơn là chưa đánh giá đầy đủ về vai trò, tính chất, mức độ phạm tội của từng bị cáo; chưa phân hóa vai trò của các bị cáo trong vụ án; vi phạm nguyên tắc quyết định hình phạt tại Điều 32 và Điều 50 Bộ luật Hình sự và theo quy định Điều 3 Nghị quyết số 01/2021/NQ-HĐTP ngày 20/12/2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, xét thấy hình phạt chính cần áp dụng đối với tội phạm “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” là hình phạt tiền và hình phạt tù.
7. Bản án hình sự phúc thẩm số 79/2024/HSPT ngày 19/3/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” đối với bị cáo Phan Văn T do có kháng cáo của bị cáo Phan Văn T
Nội dung sửa án:
Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Phan Văn T, xin được áp dụng hình phạt chính là Cải tạo không giam giữ, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy, bị cáo có nhân thân tốt phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm T4; đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện trả lại phần tiền lãi vượt quá mức cho phép (thu lợi bất chính) cho những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (người vay tiền); tự nguyện nộp một phần tiền để sung ngân sách Nhà nước (tiền dùng vào việc phạm tội) và đã được cấp sơ thẩm áp dụng để giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo bổ sung thêm tình tiết giảm nhẹ mới là lao động chính trong gia đình phải nuôi vợ đang thất nghiệp, 02 con nhỏ và cha mẹ già yếu. Xét thấy bị cáo có 03 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 nên đủ điều kiện áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự theo quy định; bị cáo đã bị tạm giam gần 03 tháng, sau khi được cho tại ngoại đến nay đã chấp hành tốt không vi phạm pháp luật nên không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội để tiếp tục chấp hành thêm 03 tháng tù theo bản án sơ thẩm đã tuyên, mà áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ để giáo dục bị cáo thành người có ích cũng đủ tác dụng. Do vậy, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Văn T, sửa bản án sơ thẩm theo hướng áp dụng hình phạt chính phạt Cải tảo không giam giữ đối với bị cáo. Đồng thời xét bị cáo đã bị truy thu phải giao nộp số tiền đã sử dụng vào việc phạm tội sau khi khấu trừ vào số tiền khắc phục hậu quả còn phải nộp tiếp 600.435.400 đồng và bị phạt bổ sung 40.000.000 đồng nên xét miễn khấu trừ thu nhập của bị cáo theo quy định.
8. Bản án hình sự phúc thẩm số 12/2024/HSPT ngày 05/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” đối với bị cáo Nguyễn Văn D do có kháng nghị của Viện kiểm sát
Nội dung sửa án:
Trong số 47 người vay tiền của bị cáo thì có 03 trường hợp bị cáo thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên, áp dụng Nghị quyết 01/2021/NQ-HĐTP, ngày 20 tháng 12 năm 2021 hướng dẫn Điều 201 Bộ luật hình sự về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” thì hành vi này thuộc trường hợp bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm chưa áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự này. Do đó, Toà án cấp phúc thẩm áp dụng thêm tình tiết tăng nặng nêu trên cho bị cáo. Cũng do bị áp dụng tình tiết tăng nặng nên cần tăng hình phạt đối với bị cáo mới tương xứng tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện.
9. Bản án hình sự phúc thẩm số 88/2024/HS-PT ngày 01/8/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” đối với bị cáo Nguyễn Thanh T do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh T
Nội dung sửa án:
Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, từ đó tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 07 (bảy) tháng tù là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo nộp biên lai thể hiện đã nộp một phần số tiền thu lợi bất chính là 50.000.000 đồng theo quyết định của bản án sơ thẩm, đây là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần áp dụng thêm cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
Xét thấy, theo tinh thần tại Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 01/2021/NQ- HĐTP ngày 20/12/2021 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn Điều 201 của Bộ luật hình sự về việc xét xử vụ án hình sự về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự có nội dung “Xem xét áp dụng nghiêm khắc hình phạt tiền là hình phạt chính đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, hoạt động dưới hình thức băng, ổ nhóm thì xem xét áp dụng hình phạt tù là hình phạt chính”. Đối chiếu với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng, hành vi của bị cáo là đơn lẻ, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, số tiền sử dụng vào việc cho vay không lớn, sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã tự nguyện nộp lại một phần số tiền thu lợi bất chính thể hiện thái độ ăn năn hối cải của mình. Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi cuộc sống bình thường của xã hội mà chỉ cần áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền với mức hình phạt nghiêm khắc cũng đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
10. Bản án hình sự phúc thẩm số 125/2024/HS-PT ngày 26/7/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xét xử về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” đối với bị cáo Lê Thị H do có kháng cáo của bị cáo Lê Thị H
Nội dung sửa án:
Tại cấp phúc thẩm bị cáo giao nộp tình tiết giảm nhẹ TNHS mới: có bố đẻ là Lê Văn X có thành tích trong công tác được Bộ trưởng bộ C tặng Huy chương “ Bảo vệ an ninh Tổ Quốc”; có bố chồng là Lê Ngọc L1 là người có công trong kháng chiến được thưởng nhiều Huân, Huy chương, Bằng khen; quá trình sinh sống tích cực tham gia công tác từ thiện, ủng hộ xây dựng công trình phúc lợi…được chính quyền địa phương xác nhận, là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Xét thấy bị cáo có nhân thân tốt; chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng nên áp dụng Điều 65 BLHS giữ nguyên mức hình phạt nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, cải tạo tại địa phương cũng đủ sức giáo dục và phòng ngừa chung.