Tổng hợp 10 bản án hủy, sửa về tội “Cố ý gây thương tích” có tình tiết côn đồ

MỤC LỤC

1. Bản án hình sự phúc thẩm số 175/2019/HS-PT ngày 02/4/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Lê Quang T do có kháng cáo của bị cáo Lê Quang T

2. Bản án hình sự phúc thẩm số 154/2022/HS-PT ngày 20/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Nguyễn Thanh C1 do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh C1 và bị hại Đặng Thanh V

3. Bản án hình sự phúc thẩm số 206/2022/HS-PT ngày 07/12/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với các bị cáo Nguyễn Minh T, Nguyễn Hoàng D, Nguyễn Hoàng V, Nguyễn Huỳnh Tấn Đ, Nguyễn Hoàng Chí Th do có kháng cáo của các bị cáo và bị hại Nguyễn Văn B

4. Bản án hình sự phúc thẩm số 138/2019/HS-PT ngày 25/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với các bị cáo Y H Hwing, Y D Hwing, Y G Ayũn và Y H1 Kbuôr do có kháng nghị của Viện kiểm sát và kháng cáo của bị cáo Y D Hwing

5. Bản án hình sự phúc thẩm số 36/2019/HS-PT ngày 28/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Bùi Văn T do có kháng nghị của Viện kiểm sát

6. Bản án hình sự phúc thẩm số 24/2024/HS-PT ngày 30/01/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với các bị bị cáo Trần Chu Cao S và Nguyễn Minh C do có kháng nghị của Viện kiểm sát

7. Bản án hình sự phúc thẩm số 01/2022/HS-PT ngày 04/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Nguyễn Thị Kim O do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Kim O

8. Bản án hình sự phúc thẩm số 37/2020/HS-PT ngày 28/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với các bị cáo Trương Văn Đ và Phạm Trường P do có kháng cáo của bị hại Phùng Thanh D

9. Bản án hình sự phúc thẩm số 92/2023/HS-PT ngày 05/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Lưu Văn C do có kháng cáo của bị cáo Lưu Văn C

10. Bản án hình sự phúc thẩm số 412/2023/HS-PT ngày 27/6/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Nguyễn Viết C do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Viết C

 

1. Bản án hình sự phúc thẩm số 175/2019/HS-PT ngày 02/4/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Lê Quang T do có kháng cáo của bị cáo Lê Quang T

Nội dung hủy án:

Tại phiên tòa phúc thẩm, Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại cho rằng họ tên của thành viên Hội đồng xét xử sơ thẩm tại Biên bản nghị án khác với biên bản phiên tòa, bản án sơ thẩm như vậy cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Đồng thời mức án đối với bị cáo là quá nhẹ, bị cáo dùng hung khí nguy hiểm, có tính chất côn đồ gây thương tích cho bị hại 52% sức khỏe nhưng mức hình phạt chỉ 05 năm 06 tháng tù là quá nhẹ, không đảm bảo tính răn đe, phải xử phạt bị cáo mức án 07 năm 06 tháng tù mới thỏa đáng vì bị cáo ngoan cố không nhận tội, không có tình tiết giảm nhẹ mà có 02 tình tiết tăng nặng nên chấp nhận kháng cáo tăng hình phạt của bị hại. Đối với kháng cáo tăng mức bồi thường thiệt hại, đề nghị phải xem xét lại số tiền bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm có nhiều mâu thuẫn. Mặt khác, các nội dung yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm và nội dung xác minh tại các cơ quan viễn thông chưa có kết quả nhưng cơ quan điều tra vẫn kết luận điều tra chuyển hồ sơ truy tố là thiếu sót, cần phải làm rõ để giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện.

2. Bản án hình sự phúc thẩm số 154/2022/HS-PT ngày 20/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Nguyễn Thanh C1 do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh C1 và bị hại Đặng Thanh V

Nội dung hủy án 

Xét thấy, cấp sơ thẩm kết án bị cáo Nguyễn Thanh C1 “ Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là chưa có cơ sở vững chắc, bỡi lẽ:

(i) Về tố tụng: Ngày 03/02/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện C ban hành cáo trạng số 10/CT để truy tố bị cáo C1 về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 điều 134 Bộ luật Hình sự, đến ngày 26/02/2021 ban hành Công văn số 36/VKS đề nghị trả hồ sơ để điều tra bổ sung và Tòa án nhân dân huyện C đã ra quyết định số 01/2021/HSST- QĐ ngày 02/3/2021 trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đến ngày 02/4/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện C ra bản cáo trạng 21/CT và truy tố bị cáo Nguyễn Thanh C1 về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 23/2021/QĐXX- HS ngày 07/4/2021 đưa ra xét xử sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Thanh C1 về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 1 điều 134 Bộ luật Hình sự, đến ngày 14 và 17/01/2022 thì mở phiên tòa xét xử và kết án bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 điều 134 Bộ luật Hình sự.

Việc đưa vụ án ra xét xử của Tòa cấp sơ thẩm trái với quy định tại điều 298 Bộ luật tố tụng Hình sự và mục 2 phần II của giải đáp số 01/2017/GĐ- TANDTC ngày 01/7/2017 của Tòa án nhân dân Tối cao là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Ngày 28/4/2021 bị cáo có đơn yêu cầu giám định lại thương tật của bị hại (bút lục 293) nhưng cấp sơ thẩm không xem xét yêu cầu này là ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của bị cáo được quy định tại điều 62 Bộ luật tố tụng Hình sự.

(ii) Về nội dung:

Hồ sơ bệnh án, giấy chứng nhận thương tích và quá trình điều trị của bị hại V thể hiện nội dung không thống nhất, lúc thì nêu biến dạng- lệch sống mũi, vết thương ấn đường # 1,5cm (bút lục 29) , lúc thì xây xát giữa trán ( bút lục 45), khi thì kết luận là vết thương nhân trung, chấn thương ngực (bút lục 47), từ đó đã trưng cầu giám định và Theo Bản kết luận giám định lại pháp y về thương tích số 03/2020/TgT ngày 01/12/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Tiền Giang kết luận Đặng Thanh V vết thương gãy xương chính mũi 08%. Sẹo vết thương giữa trán 2 bên cung mày (vết thương ấn đường) 03% , trong khi đó bị hại khai ngày 11/5/2020 cũng bị 01 nhóm người đánh nhưng không gây thương tích nặng, đến ngày 16/5/2020, lạ bị bị cáo đánh và ngày sau đó ông V có báo công an xã J đến lập biên bản và chụp ảnh các thương tích của ông V, vấn đề cấp sơ thẩm chưa làm rõ; bị cáo và bị hại khai thống nhất là bị cáo chỉ dùng tay trái đánh bị hại 01 cái vào vùng mặt, điều này chưa phù hợp với cơ chế hình thành vết thương và kết quả giám định thương tật của bị hại mà cấp sơ thẩm làm căn cứ truy tố và xét xử đối với bị cáo.

Cấp sơ thẩm cho rằng hành vi phạm tội của bị cáo có tính chất côn đồ và kết án theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là chưa có cơ sở vững chắc, bỡi lẽ, ngày 11/5/2020 giữa bị cáo và bị hại đã xãy mâu thuẩn do bị hại không thống nhất cho cắm cọc ranh mà phía bà Đ, ông Đ1 thuê bị cáo làm, đến ngày 16/5/2020 bị cáo trực tiếp liên lạc và đến nhà bị hại thương lượng để được cắm cọc ranh, nhận tiền công nhưng không thành và bị cáo ra về, đến lần thứ 3 tại phần ranh tranh chấp hai bên không thương lượng được nên bị cáo bộc phát dùng tay đánh bị hại gây thương tích, như vậy việc kết luận bị cáo phạm tội có tính chất côn đồ để truy tố theo điểm đ, khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là chưa phù hợp với nội dung được nêu tại án lệ số 17/2018AL của Tòa án nhân dân Tối cao.

Ngoài ra, biên bản phiên tòa ngày 26/4/2021 (bút lục 301) thể hiện không đúng tên họ của Kiểm sát việc được phân công tham gia phiên tòa ( Nguyễn Thanh H), quyết định hoãn phiên tòa ngày 06/01/2022 (bút lục 351) ghi không đúng điều luật bị cáo bị truy tố ( khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự), biên bản nghị án ngày 14/01/2022 ( bút lục 367) nhưng lại ghi vào lúc 10 giờ 50 phút ngày 14 tháng 01 năm 2021, những sai sót này cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.

3. Bản án hình sự phúc thẩm số 206/2022/HS-PT ngày 07/12/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với các bị cáo Nguyễn Minh T, Nguyễn Hoàng D, Nguyễn Hoàng V, Nguyễn Huỳnh Tấn Đ, Nguyễn Hoàng Chí Th do có kháng cáo của các bị cáo và bị hại Nguyễn Văn B

Nội dung hủy án 

(i) Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án nhận thấy cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, cụ thể: Theo kết luận giám định pháp y tâm thần số 541/KLGĐ ngày 27/5/2021 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Thành phố Hồ Chí Minh thì bị cáo Nguyễn Minh T bị hạn chế năng lực nhận thức và điều khiển hành vi. Tuy nhiên, trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm không chỉ định người đại diện hợp pháp và chỉ định người bào chữa cho bị cáo T làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự là vi phạm nghiêm trọng pháp luật tố tụng.

(ii) Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Minh T, bị hại Nguyễn Văn B, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phan Ngọc B1 đều khai nhận nguyên nhân bị cáo T chém ông B là do Đặng Minh T1 yêu cầu. Hơn nữa, tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Hoàng D và Nguyễn Hoàng Chí Th đều khai sau khi sự việc xảy ra, Đặng Minh T1 có đến nhà bị cáo D để yêu cầu bị cáo D và Th khai theo lời hướng dẫn của Đặng Minh T1, có vợ bị cáo D chứng kiến. Cơ quan điều tra chưa điều tra làm rõ là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.

(iii) Ngoài ra, giữa bị cáo Nguyễn Minh T và bị hại Nguyễn Văn B không có mâu thuẫn gì mà bị cáo chém bị hại gây thương tích nên hành vi của bị cáo mang tính côn đồ nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng là thiếu sót.

4. Bản án hình sự phúc thẩm số 138/2019/HS-PT ngày 25/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với các bị cáo Y H Hwing, Y D Hwing, Y G Ayũn và Y H1 Kbuôr do có kháng nghị của Viện kiểm sát và kháng cáo của bị cáo Y D Hwing

Nội dung sửa án 

Xét hành vi phạm tội của bị cáo Y G Ayũn, thì thấy: Mặc dù không có mâu thuẫn gì với người bị hại nhưng khi được bị cáo Y H rủ đi tìm người bị hại để đánh thì bị cáo liền tiếp nhận ý chí một cách tích cực và là người trực tiếp chở bị cáo Y H, Y D đi đánh bị hại và tham gia trực tiếp đánh anh Y C thể hiện tính côn đồ, hung hãn của bị cáo. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 65 xử phạt bị cáo 02 nằm tù nhưng cho hưởng án treo là chưa nghiêm khắc, chưa đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Do đó, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xác hội một thời gian để đủ tác dụng giáo dục bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư M’gar, sửa bản án sơ thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt nhưng không cho bị cáo được hưởng án treo.

5. Bản án hình sự phúc thẩm số 36/2019/HS-PT ngày 28/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Bùi Văn T do có kháng nghị của Viện kiểm sát

Nội dung sửa án 

Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Glong, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Giữa Bùi Văn T và anh Đàm Trung Th không có mâu thuẫn gì trước đó, chỉ vì bị cáo mời bia nhưng anh Th không uống, đồng thời do không quen biết nên anh Th đẩy T ra phía cửa phòng karaoke mà T dùng dao tự chế đã chuẩn bị sẵn trước đó đâm vào sườn trái của anh Th, gây thương tích 59%, gần bằng mức thương tổn cao nhất quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự (60%). Hành vi của Bùi Văn T thể hiện tính chất côn đồ, sẵn sàng gây thương tích đối với người khác. Mặc dù Bùi Văn T được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điề u 51; Điều 52 của Bộ luật hình sự nhưng bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với 02 tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm a “Dùng hung khí nguy hiểm” và điểm i “Có tính chất côn đồ” khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đồng thời bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 vì trước đó đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xử phạt 18 năm tù về tội “Giết người” “Cướp tài sản”, chưa được xóa án tích.

Do vậy, mức hình phạt 07 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với Bùi Văn T là nhẹ, chưa tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Nên có căn cứ chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Glong đề nghị tăng hình phạt tù đối với Bùi Văn T, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, cũng như có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo.

6. Bản án hình sự phúc thẩm số 24/2024/HS-PT ngày 30/01/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với các bị bị cáo Trần Chu Cao S và Nguyễn Minh C do có kháng nghị của Viện kiểm sát

Nội dung sửa án 

Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương: Xét thấy, giữa các bị cáo và bị hại không quen biết, không có mâu thuẫn, các bị cáo vô cớ đánh bị hại. Hành vi của các bị cáo có tình chất côn đồ, là tình tiết định khung tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự, cấp sơ thẩm áp dụng cho các bị cáo S và C hưởng án treo là không đúng, vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao về việc hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo, do đó kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương là có căn cứ chấp nhận.

7. Bản án hình sự phúc thẩm số 01/2022/HS-PT ngày 04/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Nguyễn Thị Kim O do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Kim O

Nội dung sửa án 

(i) Đối với tình tiết định khung hình phạt “Có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Thị Kim O là chưa chính xác. Bởi lẽ, tại Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976 và tại Hội nghị tổng kết công tác ngành TAND năm 1995 giải thích: “Khái niệm côn đồ được hiểu là hành động của những tên coi thường pháp luật, luôn luôn phá rối trật tự trị an, sẵn sàng dùng vũ lực và thích (hay) dùng vũ lực để uy hiếp người khác phải khuất phục mình, vô cớ hoặc chỉ vì một duyên cớ nhỏ nhặt là đâm chém, thậm chí giết người…”. Trong vụ án này, nguyên nhân dẫn đến xảy ra xô xát giữa bị cáo và bị hại là có nguyên cớ, việc bị cáo có những câu nói và hành vi đổ bát rượu đi nhằm mục đích khuyên can bị hại và mọi người không nên uống nhiều loại rượu sẽ bị say và đau đầu không phải là hành động sai trái, vi phạm chuẩn mực đạo đức, lối sống, mà có ý tốt cho bị hại, vì thời điểm đó bị hại H cũng đã trong tình trạng say rượu, được chứng minh bởi "Biên bản xác minh" tại Trạm y tế xã T (bút lục số 138), người cung cấp thông tin nêu“Bệnh nhân Trần Thị Bích H, tình trạng bệnh nhân say rượu”. Hơn nữa, lời khai của bị hại H tại bút lục số 243 xác nhận, sau khi bị cáo O có hành vi đổ bát rượu bị hại vừa rót lần thứ nhất thì chị H và bị cáo O đã xảy ra cãi vã nhau, nhưng liền ngay sau đó chị H và những người khách trong mâm cũng có hành vi ép bị cáo phải uống rượu phạt vì cho rằng bị cáo đã sai tạo ra cho bị cáo sự ức chế.

(ii) Mặt khác, những người làm chứng gồm anh Tạ Quốc B, anh Giàng A K ngồi cùng mâm cơm với bị cáo và bị hại ở cự ly rất gần, có thể chứng kiến diễn biến quá trình xô xát giữa 2 bên rất rõ ràng nhưng những lời khai trước và lời khai sau của chính họ về các tình tiết của vụ án có sự mâu thuẫn với nhau và mâu thuẫn với lời khai của bị hại, bị cáo. Cụ thể, lời khai của anh Tạ Quốc B tại bút lục số 268 thể hiện anh B nhìn thấy chị O cầm cốc trên mặt bàn ném vào vùng mặt, trán bên phải chị H…đến bút lục 270 anh B lại khai khi chị H và bị cáo cãi vã nhau anh đang mải nói chuyện với chú bộ đội, ngay sau đó anh nghe thấy tiếng cốc vỡ thì anh nhìn về phía phát ra tiếng cốc vỡ thì thấy chị H và bị cáo đang ôm lấy nhau, H ngã ra nền và ngất đi… bút lục số 288 anh Giàng A K khai, do anh đang nói chuyện với vợ chồng anh chị Ngụy Anh T, B nên không để ý, chỉ khi chị H đi cấp cứu tại Trạm y tế xã T thì được O cho biết thương tích do chị O ném vào mặt chị H, O cầm cốc thủy tinh ném vào mặt chị H anh không để ý, chỉ thấy chị H và O lao vào nhau … người làm chứng ngồi mâm cơm bên anh như anh Lê Tuấn A lại khai là khi thấy chị H và O xảy ra cãi vã, to tiếng thì đi về nên những diễn biến về sau thế nào anh không biết (bút lục 291). Trong giai đoạn điều tra, người làm chứng Nguyễn Xuân T, Tạ Quốc B từ chối tham gia đối chất (bút lục 266, 267, 274); người làm chứng Ngụy Anh T đang đi điều trị bệnh không có mặt tại địa phương (bút lục số 283, 284), tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm những người làm chứng được triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt. Ngoài ra, Hội đồng xét xử cũng xét thấy, những người làm chứng đều là người quen, bạn bè thân thiết của chị H, được chị H mời đến nhà ăn cơm, vì vậy lời khai của họ có phần không khách quan, vô tư, nên lời khai của họ không phải là chứng cứ vững chắc trong việc giải quyết vụ án.

(iii) Trong các giai đoạn tố tụng bị cáo O đều trình bày gia đình bị hại có lắp đặt hệ thống camera nhưng không được điều tra làm rõ. Tại bút lục số 118, chị H xác nhận gia đình chị có lắp đặt 05 camera an ninh, nhưng tại hiện trường xảy ra vụ việc cố ý gây thương tích không lắp đặt camera, không ghi nhận được hình ảnh. Khi Cơ quan điều tra đề nghị chị H cung cấp đầu thu và mắt camera để phục vụ công tác điều tra, chị H cho biết đầu thu camera đã bị hỏng bán sắt vụn không thể cung cấp được, còn mắt camera chị H không cung cấp vì lý do gia đình phải sử dụng để bảo đảm an ninh, nếu thu giữ thì phải lắp hệ thống camera mới chị H mới đồng ý giao nộp. Tuy nhiên, khi tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo O trình bày thời điểm bị cáo chăm sóc bị hại trong Bệnh viện, chị H vẫn mở điện thoại cho bị cáo xem các hoạt động của con chị H đang chơi ở nhà, có xem được hình ảnh và nghe rõ âm thanh. Chị H không phản đối ý kiến của bị cáo O nhưng cho rằng sau khi chị ra viện được 02 ngày thì đầu thu camera đã bị đập vỡ không rõ nguyên nhân.

(iv) Như vậy, Cơ quan điều tra mới chứng minh được tỷ lệ 9% thương tích tại vùng trán (trên cung mày) phía bên phải của bị hại là do bị cáo Nguyễn Thị Kim O dùng chiếc cốc thủy tinh là hung khí nguy hiểm gây nên, Cơ quan điều tra chưa thu thập đầy đủ, triệt để nguồn chứng cứ để chứng minh làm rõ về diễn biến vụ án, động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo theo quy định tại Điều 85 và Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự; điều đó dẫn tới không có cơ sở vững chắc khẳng định bị cáo là người cầm cốc thủy tinh ném bị hại trước hay bị hại lao vào cào cấu vào vùng mặt, tay, cổ và ngực bị cáo trước. Vì vậy, không có đủ căn cứ để kết luận hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị Kim O “Có tính chất côn đồ”, là tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

(v) Về việc áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tòa án cấp sơ thẩm nhận định bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt; không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do bị cáo đã tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thay đổi lời khai cho rằng bị cáo không cố ý ném cốc vào vùng trán của bị hại mà chỉ có ý định hất nước nhưng không may tay bị trơn nên cốc thủy tinh mới bị văng vào trán của bị hại là không có căn cứ nên bị cáo có thể không được áp dụng tình tiết thành khẩn khai báo, song việc bị cáo có ý thức chủ động đưa bị hại đi cấp cứu tại Trạm xá, sau đó cùng gia đình chăm sóc bị hại tại Bệnh viện và thanh toán toàn bộ chi phí viện phí, chi phí sinh hoạt cho bị hại và người phục vụ bị hại với tổng số tiền 9.625.000đ (chín triệu sáu trăm hai mươi lăm nghìn đồng) là thể hiện sự ăn năn hối cải của bị cáo nên bị cáo vẫn được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự mới phù hợp.

(vi) Trước khi mở phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã bồi thường toàn bộ số tiền 35.000.000đ (ba mươi lăm triệu đồng) còn lại theo Bản án sơ thẩm đã tuyên; tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải; ngoài ra bị cáo còn xuất trình giấy tờ tài liệu chứng minh bị cáo là mẹ đơn thân, là lao động chính trong gia đình phải nuôi 1 mẹ già; 02 con nhỏ trong đó cháu Đỗ Thiên B 04 tuổi bị mắc bệnh tự kỷ, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

(vii) Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo của bị cáo: Hội đồng xét xử thấy rằng, bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, có nơi cư trú ổn định, rõ ràng; có 04 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo không thuộc trường hợp phạm tội "Có tính chất côn đồ"; tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cung cấp được tài liệu chứng cứ mới chứng minh bị cáo là lao động chính trong gia đình nên có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đối chiếu quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo nên kháng cáo của bị cáo cần được chấp nhận.

8. Bản án hình sự phúc thẩm số 37/2020/HS-PT ngày 28/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với các bị cáo Trương Văn Đ và Phạm Trường P do có kháng cáo của bị hại Phùng Thanh D

Nội dung sửa án 

(i) Tuy nhiên, việc Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện B, Bình Thuận không làm văn bản trả lời cho người bị hại biết là vi phạm Điều 211 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nhưng vi phạm này không đến mức phải hủy án sơ thẩm như đề nghị của người bị hại, mà chỉ cần rút kinh nghiệm với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng vụ án này của huyện B, Bình Thuận là đủ.

(ii) Đối với bị cáo Trương Văn Đ:

Xét thấy, bị cáo đang có tiền án cũng về tội cố ý gây thương tích; đáng lẽ ra bị cáo phải lấy đó làm bài học để tự tu dưỡng bản thân, chấp hành pháp luật. Nhưng ngược lại, bị cáo lại tiếp tục phạm tội; điều đó thể hiện bị cáo là người rất xem thường pháp luật, xem thường tính mạng, sức khỏe của người khác, thể hiện bản tính côn đồ hung hãn, thích giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực;

Hành vi phạm tội của bị cáo không chỉ xâm phạm sức khỏe của người bị hại, gây mất trật tự trị an tại địa phương; mà còn gây bất bình, hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân.

Do đó phải xử lý nghiêm khắc, tăng mức hình phạt đối với bị cáo, tương xứng với tính chất, mức Đ và hậu quả của hành vi phạm tội, cũng như tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà bị cáo phạm phải; nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm tương tự phát sinh trong xã hội, như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận tại phiên tòa phúc thẩm.

(iii) Đối với bị cáo Phạm Trường P:

Trước đó bị cáo P đã 02 lần bị xét xử cũng về tội “Cố ý gây thương tích”, cụ thể: Vào ngày 19-11- 2003 bị Tòa phúc thẩm TANDTC tại TP. Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù và ngày 22-9- 2011 bị Tòa án nhân dân quận 2, TP. Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù. Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tự tu dưỡng bản thân, mà lại tiếp tục phạm tội. Điều đó thể hiện bị cáo P là người rất xem thường pháp luật, xem thường tính mạng, sức khỏe của người khác, thể hiện bản tính côn đồ hung hãn, không chỉ gây mất trật tự trị an tại địa phương; mà còn gây bất bình, hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân.

Tòa án cấp sơ thẩm đã không đề cập nhân thân của bị cáo P trong bản án, không xem xét đến nhân thân xấu của bị cáo P như đã phân tích ở trên.

Nên hội đồng xét xử phúc thẩm thấy cần phải xử lý nghiêm và tăng mức hình phạt đối với bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận tại phiên tòa phúc thẩm; nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm tương tự phát sinh trong xã hội.

(iv) Sau khi thụ lý phúc thẩm, Tòa án tỉnh Bình Thuận có mở ổ chứa dữ liệu USB do người bị hại giao nộp cho Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện B, nhưng trong USB không có nội dung gì. Do đó, để việc lưu giữ tài liệu, chứng cứ là hình ảnh được an toàn, thì các Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự huyện B cần rút kinh nghiệm khi thu thập chứng cứ loại này thì cần sao chép ra ổ đĩa cứng hoặc yêu cầu người cung cấp sao chép ra ổ đĩa cứng.

9. Bản án hình sự phúc thẩm số 92/2023/HS-PT ngày 05/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Lưu Văn C do có kháng cáo của bị cáo Lưu Văn C

Nội dung sửa án 

(i) Như vậy có thể thấy, trong trường hợp này không phải vô cớ C có hành vi đánh, gây thương tích cho S, mà xuất phát từ mâu thuẫn khá căng thẳng giữa hai bên, như phân tích ở trên C và S đã xảy ra mâu thuẫn to tiếng, cãi nhau hai bên có lời lẽ thách thức, giằng co, du đẩy nhau. Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo C về tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định tội “Dùng hung khí nguy hiểm” theo điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là đúng quy định. Tuy nhiên cấp sơ thẩm buộc bị cáo phải chịu thêm tình tiết định tội là “phạm tội có tính chất côn đồ” theo điểm i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là không chính xác, cấp sơ thẩm cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.

(ii) Xét nội dung kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo C, Hội đồng xét xử thấy rằng: Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, trước khi phạm tội luôn chấp hành tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, không cần thiết bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại Trại giam mà cho bị cáo hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách gấp đôi, giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách cũng đảm bảo tác dụng răn đe, phòng ngừa và giáo dục chung. Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo C, sửa bản án sơ thẩm theo hướng cho bị cáo được hưởng án treo.Tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

10. Bản án hình sự phúc thẩm số 412/2023/HS-PT ngày 27/6/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Nguyễn Viết C do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Viết C

Nội dung sửa án 

(i) Xét thấy, trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm thì Tòa án nhân dân tối cao đã có văn bản số 100/TANDTC-PC ngày 13/6/2023 hướng dẫn về việc áp dụng án lệ số 47/2021/AL hướng dẫn cụ thể hơn về việc áp dụng án lệ số 47. Trên cơ sở hướng dẫn này, thể hiện không phải lúc nào dùng hung khí nguy hiểm tấn công vào vùng trọng yếu cũng là giết người mà phải đánh vào vùng trọng yếu nếu không cấp cứu kịp thời sẽ dẫn đến chết người. “Vùng trọng yếu trên cơ thể con người là vùng có các cơ quan quan trọng quyết định đến sự sống của con người (ví dụ: tim, gan, thận, não, động mạch chủ…) nếu bị xâm hại mà người bị xâm hại không được cấp cứu kịp thời sẽ chết. Do đó, ngoài việc chứng minh bị cáo đã có hành vi dùng hung khí nguy hiểm tấn công vào vùng trọng yếu trên cơ thể bị hại thì cần phải xem xét, đánh giá toàn diện các tài liệu, chứng cứ của vụ án, các tình tiết thể hiện tính chất, mức độ của hành vi, cơ chế hình thành vết thương, sự quyết liệt trong thực hiện hành vi, vị trí cơ thể bị hại mà bị cáo có ý định tấn công để chứng minh ý thức chủ quan của bị cáo là cố ý thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho tính mạng của bị hại; hành vi của bị cáo thể hiện tính chất côn đồ, hung hãn, quyết liệt, coi thường tính mạng của người khác; bị hại không chết là ngoài ý thức, mong muốn chủ quan của bị cáo”.

(ii) Như vậy, tổn thương của chị H không phải là “Vùng trọng yếu” của cơ thể con người; tổn thương của cháu N mặc dù là vùng đầu nhưng cơ chế hình thành vết thương tích này không thể do bị cáo dùng búa đánh thẳng vào đầu mà do có sự giằng co giữa bị cáo với chị H và cháu N như lời khai của bị cáo là phù hợp.

(iii) Đánh giá mục đích, động cơ và hành vi của bị cáo, đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, đặc biệt là “Giấy chứng nhận thương tích” lúc nhập viện của các bị hại và Kết luận giám định thương tích nêu trên, thể hiện: Thương tích do bị cáo thực hiện bằng loại hung khí như án sơ thẩm miêu tả nhưng bị cáo không tấn công quyết liệt, bị hại không chết là ngoài mong muốn của bị cáo. Hành vi trên của bị cáo không nhằm tước đoạt mạng sống của các bị hại mà chỉ cố ý gây thương tích cho các bị hại.

(iv) Về việc bị cáo trước đó có nhắn tin đe dọa anh U “Tau không đủ sức giết mày nhưng đủ sức giết vợ con mày” xuất phát từ việc bức xúc đòi nợ anh U không trả, trong lúc nóng giận bị cáo đã có những lời lẽ nêu trên chứ không có ý thức nhưng hành vi của bị cáo thể hiện bị cáo không quyết liệt chiếm đoạt tính mạng của bị hại. Do đó, hành vi trên của bị cáo chỉ cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo qui định tại điểm a, c, i Khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Việc truy tố, xét xử Bị cáo C về tội “Giết người” (chưa đạt) là chưa đúng quy định pháp luật như đã phân tích trên.

Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã 03 lần trả hồ sơ điều tra bổ sung. Hai lần truy tố đầu tiên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đều giữ quan điểm truy tố về tội “Cố ý gây thương tích”. Việc điều tra, thu thập chứng cứ cũng đã đảm bảo đầy đủ. Do đó, Hội đồng xét xử thấy không cần thiết hủy án sơ thẩm để điều tra, xác định lại tội danh mà chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 149/2022/HS-ST ngày 30 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, chuyển tội danh từ tội “Giết người” sang tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, c, i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

(v) Tuy nhiên, bị cáo có 03 tình tiết định khung tại các điểm a, c, i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là: Dùng hung khí nguy hiểm có khả năng gây nguy hại cho nghiều người; phạm tội với người dưới 16 tuổi; có tính chất côn đồ. Do đó, cần áp dụng mức cao nhất của khung hình phạt, xử phạt bị cáo 03 năm tù để đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung.

Góp ý