
Tội vi phạm quy định về cạnh tranh được quy định như thế nào? Việc chuyển hồ sơ trong trường hợp phát hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm được thực hiện ra sao?
Luật sư cho tôi hỏi: Tôi làm trong ngành phân phối vật liệu xây dựng. Thời gian vừa qua, cơ quan chức năng vào cuộc điều tra và phát hiện một số công ty lớn trong ngành đã bắt tay nhau để nâng giá xi măng, ép các đại lý nhỏ như chúng tôi phải mua với giá cao, không có lựa chọn khác. Tôi nghe nói hành vi này không chỉ vi phạm Luật Cạnh tranh mà còn có thể bị xử lý hình sự. Và trong quá trình điều tra vụ việc cạnh tranh, nếu cơ quan có thẩm quyền phát hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm thì việc chuyển hồ sơ được thực hiện ra sao? Mong luật sư tư vấn giúp, xin cảm ơn.
MỤC LỤC
1. Tội vi phạm quy định về cạnh tranh được quy định như thế nào?
Trả lời:
1. Tội vi phạm quy định về cạnh tranh được quy định như thế nào?
Nhằm mục đích răn đe người có hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh có tính chất nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn cho người khác hoặc mang lại lợi ích bất chính đáng kể cho tổ chức, cá nhân, Nhà nước đã đưa ra chế tài hình sự để xử lý những hành vi này. Cụ thể, tại Điều 217 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như sau:
“Điều 217. Tội vi phạm quy định về cạnh tranh
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây gây thiệt hại cho người khác từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh;
b) Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận;
c) Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan 30% trở lên thuộc một trong các trường hợp: thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ; thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, dịch vụ; thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
c) Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền;
d) Thu lợi bất chính 3.000.000.000 đồng trở lên;
đ) Gây thiệt hại cho người khác 5.000.000.000 đồng trở lên.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 02 năm;
c) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.”
Dựa vào quy định trên có thể xác định các yếu tố cấu thành tội vi phạm quy định về cạnh tranh này như sau:
Thứ nhất, về chủ thể
- Cá nhân là người có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Về độ tuổi, người phạm tội phải từ đủ 16 tuổi trở lên theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 rằng:
“Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”
Theo đó, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này theo quy định trên của pháp luật do không thuộc trường hợp đã nêu.
- Đối với pháp nhân thương mại, đây cũng là chủ thể của tội danh này theo quy định tại Điều 76 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:
“Điều 76. Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
Pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm quy định tại một trong các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 209, 210, 211, 213, 216, 217, 225, 226, 227, 232, 234, 235, 237, 238, 239, 242, 243, 244, 245, 246, 300 và 324 của Bộ luật này.”
Thứ hai, về khách thể
Khách thể của Tội vi phạm quy định về cạnh tranh là trật tự quản lý kinh tế của nhà nước trong lĩnh vực cạnh tranh. Cụ thể, là các hành vi phạm tội đã xâm phạm đến các quy định của pháp luật về cạnh tranh nhằm đảm bảo môi trường kinh doanh công bằng, cạnh tranh lành mạnh.
Thứ ba, về mặt chủ quan
Người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Tức là người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Cần lưu ý rằng, động cơ và mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này.
Thứ tư, về mặt khách quan
Vì đây là tội phạm có cấu thành vật chất, cho nên mặt khách quan của tội danh này phải có ba yếu tố sau:
- Hành vi khách quan:
+ Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh;
+ Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận;
+ Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan 30% trở lên thuộc một trong các trường hợp gồm:
- Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
- Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
- Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, dịch vụ;
- Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
- Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
- Hậu quả, hành vi chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi gây ra hậu quả mà pháp luật quy định, cụ thể:
+ Gây thiệt hại cho người khác từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000;
+ Hoặc thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng.
Quy định rõ ràng như vậy có ý nghĩa quan trọng trong việc xác lập ranh giới pháp lý, giúp phân biệt giữa vi phạm hành chính và vi phạm hình sự. Khi mức độ, hậu quả hành vi đã vượt quá ngưỡng nhất định, pháp luật hình sự sẽ kịp thời can thiệp nhằm răn đe, trừng trị và phòng ngừa tái phạm.
- Mối quan hệ nhân quả: cần chứng minh rõ ràng rằng những hành vi khách quan trên là nguyên nhân dẫn đến những hậu quả như đã phân tích.
Chế định này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xác định tội phạm, bởi nó không chỉ đặt ra ranh giới pháp lý rõ ràng giữa hành vi vi phạm hành chính và hành vi vi phạm hình sự, mà còn giúp cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ khách quan để đánh giá và xử lý đúng bản chất của vụ việc. Việc quy định ngưỡng hậu quả cụ thể tạo ra sự minh bạch trong áp dụng pháp luật, bảo đảm mọi hành vi nguy hiểm cho xã hội đều được nhận diện và xử lý kịp thời, phù hợp với mức độ thiệt hại gây ra. Qua đó, pháp luật hình sự được phát huy vai trò răn đe, phòng ngừa chung, đồng thời tránh được tình trạng lạm dụng hình sự hóa các quan hệ kinh tế, xã hội hoặc bỏ lọt hành vi nguy hiểm đáng lẽ phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ý nghĩa sâu xa hơn là quy định này góp phần duy trì công bằng, ổn định trật tự pháp lý và củng cố niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào sự nghiêm minh, công bằng của hệ thống pháp luật.
2. Việc chuyển hồ sơ trong trường hợp phát hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm được thực hiện ra sao?
Trong quá trình điều tra vụ việc cạnh tranh, việc phát hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xử lý đúng đắn, kịp thời và theo đúng thẩm quyền. Vậy nên Điều 85 Luật Cạnh tranh năm 2018 đã quy định cụ thể về cơ chế chuyển hồ sơ sang cơ quan có thẩm quyền khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, cụ thể:
“Điều 85. Chuyển hồ sơ trong trường hợp phát hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm
1. Trong quá trình điều tra, khi phát hiện có dấu hiệu của tội phạm, điều tra viên vụ việc cạnh tranh phải báo cáo Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh xem xét, kiến nghị Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia chuyển một phần hoặc toàn bộ hồ sơ liên quan đến dấu hiệu của tội phạm đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp xác định không có căn cứ hoặc không khởi tố vụ án hình sự về tội vi phạm quy định về cạnh tranh, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trả lại hồ sơ cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia để tiếp tục điều tra theo quy định của Luật này. Thời hạn điều tra được tính từ ngày Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia nhận lại hồ sơ.”
Theo đó, trong quá trình điều tra mà phát hiện có dấu hiệu của tội phạm, điều tra viên vụ việc cạnh phải báo cáo cho Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh xem xét, kiến nghị Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia chuyển một phần hoặc là toàn bộ hồ sơ liên quan đến dấu hiệu của tội phạm đó đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. Nếu xác định rằng không có căn cứ hoặc không khởi tố vụ án hình sự về tội vi phạm quy định về cạnh tranh, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ trả lại hồ sơ cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia để tiếp tục điều tra theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2018. Lưu ý rằng thời hạn điều tra được tính từ ngày Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia nhận lại hồ sơ.
Từ phân tích trên cho thấy điều khoản này đã thể hiện vai trò cầu nối quan trọng giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật hình sự trong việc xử lý hành vi vi phạm. Việc chuyển hồ sơ khi phát hiện dấu hiệu tội phạm không chỉ bảo đảm mọi hành vi nguy hiểm cho xã hội đều được xử lý bằng đúng công cụ pháp lý, mà còn giúp tránh tình trạng lạm dụng hoặc bỏ lọt tội phạm. Đồng thời, cơ chế nhận lại hồ sơ khi không có căn cứ khởi tố cũng khẳng định tính linh hoạt, bảo đảm quá trình điều tra vụ việc cạnh tranh được tiếp tục diễn ra khách quan và toàn diện. Nhờ đó, quy định này không chỉ góp phần duy trì kỷ cương, trật tự pháp lý, mà còn củng cố niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và người dân vào tính công minh, thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam.
Trân trọng./.