
Đồng tiền và giới hạn cấp bảo lãnh tín dụng được quy định như thế nào? Chi phí hoạt động bảo lãnh tín dụng được giải quyết ra sao?
Luật sư cho tôi hỏi: Tôi là chủ một doanh nghiệp nhỏ đang có kế hoạch vay vốn ngân hàng để mở rộng sản xuất. Khi tìm hiểu về các thủ tục vay vốn, tôi được biết Quỹ bảo lãnh tín dụng có thể hỗ trợ doanh nghiệp bằng cách cấp bảo lãnh cho khoản vay. Tuy nhiên, tôi còn băn khoăn về một số vấn đề cụ thể: đồng tiền sử dụng để cấp bảo lãnh có phải là đồng Việt Nam hay có thể là ngoại tệ, giới hạn tối đa của khoản bảo lãnh được quy định ra sao và chi phí hoạt động bảo lãnh tín dụng sẽ được doanh nghiệp thanh toán như thế nào? Mong luật sư giải thích giúp tôi, xin cảm ơn.
MỤC LỤC
1. Đồng tiền và giới hạn cấp bảo lãnh tín dụng được quy định như thế nào?
2. Chi phí hoạt động bảo lãnh tín dụng được giải quyết ra sao?
Trả lời:
1. Đồng tiền và giới hạn cấp bảo lãnh tín dụng được quy định như thế nào?
Trong cơ chế bảo lãnh tín dụng, việc xác định đồng tiền sử dụng và giới hạn cấp bảo lãnh là yếu tố quan trọng để kiểm soát rủi ro tài chính, đồng thời bảo đảm tính minh bạch trong giao dịch. Nếu không có quy định cụ thể, Quỹ bảo lãnh tín dụng có thể gặp khó khăn trong quản trị vốn và dễ rơi vào tình trạng mất cân đối tài chính khi bảo lãnh vượt quá khả năng. Do đó, Điều 19 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừađã quy định như sau:
“Điều 19. Đồng tiền và giới hạn cấp bảo lãnh tín dụng
1. Đồng tiền bảo lãnh tín dụng là đồng Việt Nam (VND).
2. Giới hạn bảo lãnh vay vốn đầu tư: Tổng mức bảo lãnh tín dụng của Quỹ bảo lãnh tín dụng tính trên vốn điều lệ thực có của Quỹ bảo lãnh tín dụng không vượt quá 15% đối với một khách hàng và không vượt quá 20% đối với một khách hàng và người có liên quan.
3. Giới hạn bảo lãnh vay vốn lưu động: Ngoài quy định về giới hạn bảo lãnh vay vốn tại khoản 2 Điều này, giới hạn bảo lãnh vay vốn lưu động của Quỹ bảo lãnh tín dụng tối đa không vượt quá vốn chủ sở hữu của khách hàng thể hiện tại báo cáo tài chính của doanh nghiệp nộp cho cơ quan quản lý thuế của năm trước liền kề.
4. Tổng mức bảo lãnh tín dụng của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các bên được bảo lãnh quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này tối đa không vượt quá 03 lần vốn điều lệ thực có của Quỹ bảo lãnh tín dụng.”
Theo đó, đồng tiền bảo lãnh tín dụng được ấn định là đồng Việt Nam (VND), qua đó bảo đảm sự thống nhất trong thanh toán và phù hợp với hệ thống pháp luật tài chính quốc gia. Tiếp đến, pháp luật thiết lập giới hạn cụ thể đối với bảo lãnh vay vốn đầu tư, cụ thể tổng mức bảo lãnh tín dụng của Quỹ bảo lãnh tín dụng tính trên vốn điều lệ thực có của Quỹ bảo lãnh tín dụng không được vượt quá 15% đối với một khách hàng và không được vượt quá 20% đối với một khách hàng và người có liên quan. Sự ghi nhận này giúp phân tán rủi ro, tránh tình trạng tập trung quá lớn vào một nhóm đối tượng. Ngoài quy định về giới hạn bảo lãnh vay vốn như trên, đối với cho vay vốn lưu động, thì giới hạn bảo lãnh vay vốn lưu động của Quỹ bảo lãnh tín dụng tối đa không được vượt quá vốn chủ sở hữu của khách hàng thể hiện tại báo cáo tài chính của doanh nghiệp nộp cho cơ quan quản lý thuế của năm trước liền kề.
Đặc biệt lưu ý rằng, tổng mức bảo lãnh tín dụng của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các bên được bảo lãnh theo nội dung phân tích trên với mức tối đa không vượt quá 03 lần vốn điều lệ thực có của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Những ràng buộc này không chỉ giúp Quỹ bảo lãnh tín dụng kiểm soát được năng lực tài chính của mình mà còn ngăn ngừa nguy cơ mất an toàn hệ thống, bảo đảm sự phát triển bền vững của cả Quỹ bảo lãnh tín dụng và doanh nghiệp.
Việc quy định rõ giới hạn bảo lãnh giúp phân bổ nguồn lực hợp lý, tránh tình trạng phụ thuộc quá lớn vào một số ít khách hàng, đồng thời khuyến khích sự đa dạng hóa trong đối tượng thụ hưởng. Mặt khác, cơ chế gắn trách nhiệm bảo lãnh với năng lực vốn của cả Quỹ bảo lãnh tín dụng và doanh nghiệp cũng tạo động lực để các bên nâng cao hiệu quả quản trị, duy trì tính minh bạch và sự ổn định lâu dài. Nhờ đó, điều luật này không chỉ bảo vệ Quỹ bảo lãnh tín dụng khỏi nguy cơ mất cân đối tài chính, mà còn góp phần hình thành một môi trường tín dụng công bằng, an toàn và bền vững cho cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa.
2. Chi phí hoạt động bảo lãnh tín dụng được giải quyết ra sao?
Nhằm thiết lập nguyên tắc rõ ràng về chi phí cho hoạt động bảo lãnh tín dụng, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Quỹ bảo lãnh tín dụng và bên được bảo lãnh, Điều 20 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa quy định như sau:
“Điều 20. Chi phí hoạt động bảo lãnh tín dụng
1. Các chi phí liên quan đến hoạt động bảo lãnh tín dụng bao gồm:
a) Chi phí thẩm định hồ sơ bảo lãnh tín dụng khách hàng trả cho Quỹ bảo lãnh tín dụng cùng với hồ sơ đề nghị bảo lãnh lãnh tín dụng;
b) Chi phí bảo lãnh tín dụng tính trên số tiền được bảo lãnh và thời hạn bảo lãnh. Thời hạn thu phí bảo lãnh tín dụng được ghi trong hợp đồng bảo lãnh theo thỏa thuận giữa Quỹ bảo lãnh tín dụng và bên được bảo lãnh, phù hợp với thời hạn bảo lãnh tín dụng.
2. Quỹ bảo lãnh tín dụng trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định các mức chi phí cụ thể theo quy định tại khoản 1 Điều này trong từng thời kỳ để Quỹ bảo lãnh tín dụng có căn cứ thực hiện.
3. Việc miễn, giảm chi phí bảo lãnh tín dụng thực hiện theo quy định tại Quy chế quy định cụ thể về các trường hợp, lĩnh vực được miễn, giảm chi phí bảo lãnh tín dụng do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành trên cơ sở đề nghị của Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng. Nguyên tắc để xác định mức độ miễn, giảm chi phí bảo lãnh tín dụng bao gồm:
a) Thuộc lĩnh vực được miễn, giảm chi phí bảo lãnh tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên của địa phương;
b) Phù hợp với khả năng tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng;
c) Thẩm quyền phê duyệt đối với từng trường hợp cụ thể là Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng trên cơ sở đề nghị của Giám đốc Quỹ.”
Theo quy định, các chi phí liên quan đến hoạt động bảo lãnh tín dụng bao gồm:
- Chi phí thẩm định hồ sơ bảo lãnh tín dụng khách hàng trả cho Quỹ bảo lãnh tín dụng cùng với hồ sơ đề nghị bảo lãnh lãnh tín dụng;
- Chi phí bảo lãnh tín dụng tính trên số tiền được bảo lãnh và thời hạn bảo lãnh. Thời hạn thu phí bảo lãnh tín dụng được ghi trong hợp đồng bảo lãnh theo thỏa thuận giữa Quỹ bảo lãnh tín dụng và bên được bảo lãnh, phù hợp với thời hạn bảo lãnh tín dụng.
Đồng thời, để phù hợp với tình hình thực tế, Quỹ bảo lãnh tín dụng phải trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định mức phí cụ thể theo luật định trong từng thời kỳ để Quỹ bảo lãnh tín dụng có căn cứ thực hiện. Ngoài việc nêu rõ về mức phí, điều luật này còn đặt ra cơ chế miễn, giảm trong những trường hợp cần thiết. Cụ thể, việc miễn, giảm chi phí bảo lãnh tín dụng thực hiện theo ghi nhận tại Quy chế quy định cụ thể về các trường hợp, lĩnh vực được miễn, giảm chi phí bảo lãnh tín dụng do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành trên cơ sở đề nghị của Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng. Những nguyên tắc để xác định mức độ miễn, giảm chi phí bảo lãnh tín dụng gồm:
- Thuộc lĩnh vực được miễn, giảm chi phí bảo lãnh tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên của địa phương;
- Phù hợp với khả năng tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng;
- Thẩm quyền phê duyệt đối với từng trường hợp cụ thể là Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng trên cơ sở đề nghị của Giám đốc Quỹ bảo lãnh tín dụng.
Như vậy, ta thấy rằng điều khoản này không chỉ nhằm xác định rõ cơ cấu chi phí trong hoạt động bảo lãnh tín dụng, mà còn thể hiện sự cân bằng giữa yêu cầu tự chủ tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng và mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp. Việc thiết lập cơ chế thu phí, kèm theo các nguyên tắc miễn, giảm phù hợp với lĩnh vực ưu tiên và năng lực tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng, giúp bảo đảm tính linh hoạt và công bằng trong áp dụng. Qua đó, điều khoản này tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa có cơ hội tiếp cận dịch vụ bảo lãnh với chi phí hợp lý, đồng thời giúp Quỹ bảo lãnh tín dụng duy trì nguồn lực để hoạt động lâu dài. Xa hơn, cơ chế chi phí bảo lãnh còn đóng vai trò như một công cụ định hướng, khuyến khích doanh nghiệp tập trung vào những lĩnh vực có lợi thế phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng bền vững của kinh tế địa phương và quốc gia.
Trân trọng./.