1. Giải thích từ ngữ
Chống loài người được hiểu là hành vi tiêu diệt hàng loạt dân cư của một khu vực, phá hủy nguồn sống, phá hoại cuộc sống văn hóa, tinh thần của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền, làm đảo lộn nền tảng của một xã hội nhằm phá hoại xã hội đó hoặc thực hiện hành vi diệt chủng khác hoặc thực hiện hành vi diệt sinh, diệt môi trường tự nhiên.
2. Tội danh
“Điều 422. Tội chống loài người
1. Người nào trong thời bình hay trong chiến tranh mà thực hiện hành vi tiêu diệt hàng loạt dân cư của một khu vực, phá hủy nguồn sống, phá hoại cuộc sống văn hóa, tinh thần của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền, làm đảo lộn nền tảng của một xã hội nhằm phá hoại xã hội đó hoặc thực hiện hành vi diệt chủng khác hoặc thực hiện hành vi diệt sinh, diệt môi trường tự nhiên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
2. Phạm tội trong trường hợp do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.”
3. Cấu thành tội phạm
3.1. Khách thể của tội phạm
Tội chống loài người là hành vi tiêu diệt hàng loạt dân cư của một khu vực, phá huỷ nguồn sống, phá huỷ cuộc sống văn hoá, tinh thần của một nước, làm đảo lộn nền tảng của một xã hội nhằm phá hoại xã hội đó, diệt sinh, diệt môi trường tự nhiên và những hành vi diệt chủng khác.
Tội phạm này cũng là đối tượng được quy định trong Quy chế Rome về Tòa án Hình sự quốc tế năm 1998 được thông qua ngày 17/7/1998, tại Hội nghị ngoại giao về việc thiết lập Tòa án Hình sự quốc tế do Liên Hợp Quốc tổ chức:
“Điều 7. Tội ác chống nhân loại
Trong Quy chế này, “tội ác chống nhân loại” là một trong các hành vi sau được thực hiện như một phần của sự tấn công có hệ thống hoặc trên diện rộng nhằm vào bất kỳ một cộng đồng dân thường nào, với nhận biết về sự tấn công đó:
Giết người;
Hủy diệt;
Bắt làm nô lệ;
Lưu đày hoặc cưỡng ép di chuyển dân cư;
Bỏ tù hoặc có hình thức khác tước đoạt tự do thân thể một cách nghiêm trọng trái với các quy tắc cơ bản của luật pháp quốc tế;
Tra tấn;
Hiếp dâm, bắt làm nô lệ tình dục, cưỡng ép mại dâm, ép buộc mang thai, cưỡng ép triệt sản hoặc bất kỳ hình thức bạo lực tình dục nào khác có tính chất nghiêm trọng tương tự;
Ngược đãi bất kỳ nhóm hoặc tập thể người nào có chung đặc điểm vì lý do chính trị, chủng tộc, dân tộc, sắc tộc, văn hóa, tôn giáo, giới tính như được định nghĩa tại khoản 3, hoặc những lý do khác được thừa nhận rộng rãi là bị cấm theo luật quốc tế, liên quan đến bất kỳ hành vi nào nêu tại khoản này hoặc bất kỳ tội phạm nào thuộc quyền tài phán của Tòa án;
Đưa người đi biệt tích;
Phân biệt chủng tộc;
Các hành vi vô nhân đạo khác có tính chất tương tự cố ý gây nhiều đau đớn hoặc tổn thương nghiêm trọng cho thân thể hoặc sức khỏe về mặt tinh thần hay thể chất.”
Vì vậy, khách thể của tội chống loài người là sự sống của dân cư ở một khu vực hoặc một quốc gia, nguồn sống, cuộc sống văn hoá, tinh thần của một nước, nền tảng xã hội của một xã hội, sự sống của con người, của động, thực vật trong một khu vực và môi trường tự nhiên.
3.2. Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi phạm tội chống loài người có thể bao gồm các hành vi sau:
- Diệt chủng là hành vi tiêu diệt một nhóm người, vi phạm Công ước của Liên Hợp Quốc ngày 9 tháng 12 năm 1948 về phòng ngừa và trừng trị tội diệt chủng. Theo công ước này, các hành vi sau được coi là diệt chủng: giết hại thành viên của một nhóm, xâm phạm nghiêm trọng thể xác hoặc tinh thần của nhóm, đặt nhóm vào điều kiện dẫn đến sự tiêu diệt toàn bộ hoặc một phần, ngăn cản sinh đẻ trong nhóm và di chuyển trẻ em từ nhóm này sang nhóm khác. Điều 342 Bộ luật Hình sự Việt Nam mở rộng phạm vi diệt chủng bao gồm: tiêu diệt hàng loạt dân cư, phá hủy nguồn sống, phá hủy văn hóa và tinh thần, làm đảo lộn xã hội để phá hoại và các hành vi khác liên quan.
- Diệt sinh là hành vi hủy diệt sự sống của động thực vật trên một khu vực địa lý quan trọng đối với cư dân. Hậu quả là phá hủy môi trường sống, cây cối, động vật, ô nhiễm đất, nước, không khí, và làm cho sự sống của con người, động vật, thực vật không còn tồn tại.
- Diệt môi trường tự nhiên là hành vi phá hủy môi trường tự nhiên, làm mất sự cân bằng sinh thái, dẫn đến sự huỷ diệt sự sống của sinh vật, bao gồm cả con người. Vì vậy, diệt sinh và diệt môi trường tự nhiên là những giai đoạn hoặc phương tiện của quá trình diệt chủng.
- Bức hại: Gây ra các hành động tàn bạo như tra tấn, ngược đãi hoặc cưỡng ép di cư đối với một nhóm người dựa trên lý do chủng tộc, tôn giáo, sắc tộc hoặc chính trị.
- Nô lệ hóa: Bắt giữ và cưỡng ép người khác làm nô lệ, bao gồm cả nô lệ tình dục.
- Tra tấn và hành hạ: Gây đau đớn thể xác hoặc tinh thần thông qua các phương pháp tra tấn, hành hạ hoặc đối xử vô nhân đạo.
- Cưỡng bức di dân: Ép buộc một nhóm người di chuyển hoặc trục xuất họ khỏi nơi cư trú một cách bất hợp pháp và phi nhân đạo.
- Đưa vào điều kiện sống khắc nghiệt: Đặt một nhóm người vào những điều kiện sống khắc nghiệt nhằm hủy hoại dần sức khỏe, tinh thần, và sinh mệnh của họ.
Hậu quả:
- Thiệt hại về sinh mạng: Hành vi giết người hàng loạt hoặc gây bức hại thường dẫn đến cái chết của nhiều người, gây ra sự mất mát sinh mạng lớn.
- Tổn thương về thể chất và tinh thần: Những hành vi tra tấn, ngược đãi, và hành hạ gây ra những tổn thương nghiêm trọng về thể chất và tinh thần cho các nạn nhân.
- Phá hủy cộng đồng và xã hội: Cưỡng bức di cư và các hành động bức hại khác có thể dẫn đến sự tan rã của cộng đồng và xã hội, làm mất đi sự ổn định và trật tự xã hội.
- Gây ra sợ hãi và bất ổn: Các hành vi chống loài người tạo ra sự sợ hãi và hoang mang trong cộng đồng, có thể dẫn đến sự bất ổn lâu dài và tình trạng căng thẳng xã hội.
- Suy giảm uy tín quốc gia: Các hành vi này làm suy giảm nghiêm trọng uy tín của quốc gia hoặc chính phủ liên quan, gây ra chỉ trích và trừng phạt từ cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc để xác định tội danh. Tội chống loài người có cấu thành hình thức, tội phạm được hoàn thành khi có một trong những hành vi diệu chủng; hoặc diệt sinh hoặc diệt môi trường tự nhiên xảy ra.
3.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm, thấy trước hậu quả của hành vi và mong muốn hậu quả xảy ra. Mục đích phạm tội là nhằm "phá hoại xã hội", "làm đảo lộn nền tảng của một xã hội". Đây là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt chủ quan của cấu thành tội phạm.
3.4. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể có thể có thể là công dân Việt Nam hoặc công dân nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam, thường là những người có thẩm quyền trong chiến tranh hoặc trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên người phạm tội phải đáp ứng đủ điều kiện về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự. Theo Điều 12 Bộ luật Hình sự, chủ thể của tội này là người từ đủ 16 tuổi trở lên.
Trân trọng./.