Hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án trong vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ án dân sự được quy định như thế nào? Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện ra sao?

Hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án trong vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ án dân sự được quy định như thế nào? Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện ra sao?

Hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án trong vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ án dân sự được quy định như thế nào? Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện ra sao?

Luật sư cho tôi hỏi: Sau khi Tòa án ban hành bản án hoặc quyết định, không phải lúc nào đương sự cũng thi hành ngay, và tôi thấy có trường hợp bản án bị kháng cáo, kháng nghị hoặc chậm thi hành trong thực tế. Vậy pháp luật quy định hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án trong các loại vụ án hình sự, hành chính, dân sự như thế nào? Khi bản án đã có hiệu lực pháp luật, cơ chế nào được áp dụng để bảo đảm việc thi hành nghiêm túc, đúng quy định?

MỤC LỤC

1. Hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án trong vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ án dân sự được quy định như thế nào?

2. Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện ra sao?

 

Trả lời:

1. Hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án trong vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ án dân sự được quy định như thế nào?

(i) Hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án trong vụ án hình sự

- Bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị (theoquy định tại Điều 343 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015).

- Tòa án cấp phúc thẩm đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với vụ án mà người kháng cáo đã rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát đã rút toàn bộ kháng nghị. Việc đình chỉ xét xử phúc thẩm trước khi mở phiên tòa do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định, tại phiên tòa do Hội đồng xét xử quyết định. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm (theo quy định tại khoản 1 Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015).

- Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (theo quy định tại khoản 2 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015).

- Quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định (theo quy định tại khoản 2 Điều 361 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015).

- Quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định (theo quy định tại khoản 1 Điều 395 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015).

(ii) Hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án trong vụ án hành chính

- Bản án, quyết định đình chỉ vụ án giải quyết khiếu kiện về danh sách cử tri có hiệu lực thi hành ngay. Đương sự không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị (theo quy định tại khoản 1 Điều 202 Luật Tố tụng hành chính 2015).

- Bản án, quyết định hoặc phần của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị (theo quy định tại khoản 2 Điều 215 Luật Tố tụng hành chính 2015).

- Trường hợp người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị trước khi Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm thì Thẩm phán được phân công làm Chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm; trong trường hợp người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị sau khi Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.

Trong các trường hợp này, bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm (theo quy định tại khoản 2 Điều 229 Luật Tố tụng hành chính 2015).

- Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật trong trường hợp đình chỉ xét xử phúc thẩm, nếu việc xét xử phúc thẩm vụ án cần phải có mặt người kháng cáo và họ đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt (theo quy định tại khoản 5 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính 2015).

- Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (theo quy định tại khoản 7 Điều 242 Luật Tố tụng hành chính 2015).

- Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra bản án, quyết định trong trường hợp thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết theo thủ tục rút gọn bị kháng cáo, kháng nghị (theo quy định tại khoản 7 Điều 253 Luật Tố tụng hành chính 2015).

- Quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định (theo quy định tại khoản 6 Điều 243 Luật Tố tụng hành chính 2015).

- Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng xét xử giám đốc thẩm ra quyết định (theo quy định tại Điều 278 Luật Tố tụng hành chính 2015).

- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay (theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Tố tụng hành chính 2015).

(iii) Hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án trong vụ án dân sự

- Bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc những phần bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị (theo quy định tại khoản 2 Điều 282 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).

- Những bản án, quyết định sau đây của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, khiếu nại, kháng nghị, kiến nghị (theo quy định tại khoản 2 Điều 482 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015):

+ Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở lại làm việc, trả lương, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất tinh thần của công dân; quyết định về tính hợp pháp của cuộc đình công;

+ Quyết định về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

- Thủ tục phúc thẩm rút gọn đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra bản án, quyết định (theo quy định tại khoản 7 Điều 324 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).

- Trong thời hạn chuẩn bị xét kháng cáo, kháng nghị, nếu tất cả người kháng cáo rút đơn kháng cáo, Viện kiểm sát rút kháng nghị thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc xét đơn yêu cầu theo thủ tục phúc thẩm. Trong trường hợp này, quyết định giải quyết việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ (theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 373 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).

- Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (theo quy định tại khoản 6 Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).

- Quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định (theo quy định tại khoản 6 Điều 314 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).

- Quyết định phúc thẩm giải quyết việc dân sự có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định và được gửi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 370 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 (theo quy định tại khoản 4 Điều 375 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015). 

- Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định (theo quy định tại Điều 349 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).

- Quyết định của Tòa án nhân dân cấp cao có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định và có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đối với thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài (theo quy định tại khoản 4 Điều 443 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).

- Quyết định của Tòa án nhân dân cấp cao có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định và có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đối với thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài (theo quy định tại khoản 6 Điều 462 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).

- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay (theo quy định tại khoản 1 Điều 139 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).

- Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án có hiệu lực thi hành ngay và phải được gửi ngay cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp (theo quy định tại khoản 4 Điều 289 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).

- Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm (theo quy định tại khoản 8 Điều 419 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).

2. Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện ra sao?

Điều 17 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2024 quy định về bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án như sau:

Điều 17. Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án

1. Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.

2. Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được bảo đảm thi hành theo quy định của pháp luật.

3. Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật nếu có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, kết luận không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án, vụ việc phải do Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định và khắc phục theo trình tự, thủ tục theo quy định của luật.

4. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan không thi hành bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Việc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án theo quy định tại Điều 17 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2024 thể hiện rõ nguyên tắc tôn trọng và thi hành nghiêm túc các phán quyết tư pháp trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đều có nghĩa vụ tuân thủ và thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; đồng thời, pháp luật cũng quy định cơ chế cưỡng chế thi hành và xử lý nghiêm minh đối với các hành vi cản trở hoặc không chấp hành. Ngoài ra, trong trường hợp bản án, quyết định có sai sót nghiêm trọng, hệ thống Tòa án có cơ chế pháp lý phù hợp để xem xét và khắc phục, qua đó góp phần bảo đảm tính công bằng, đúng pháp luật và uy tín của Tòa án trong hoạt động tư pháp.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý