DỰ THẢO ÁN LỆ SỐ 12/2025 VỀ XÁC ĐỊNH LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Tình huống án lệ:
Hợp đồng tín dụng có thỏa thuận khoản tiền phạt chậm trả lãi được tính trên khoản nợ lãi trong hạn và khoản nợ lãi quá hạn. Bên vay vi phạm nghĩa vụ thanh toán, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bên vay phải thanh toán nợ gốc, lãi trên nợ gốc trong hạn, lãi trên nợ gốc quá hạn, phạt chậm trả lãi (lãi trên nợ lãi trong hạn và lãi trên nợ lãi quá hạn).
Nội dung dự thảo án lệ:
“[8] Đối với nội dung kháng nghị về nội dung tuyên án vi phạm về tính lãi suất: Bản án sơ thẩm buộc bà Đàm Thu H phải chịu lãi chậm trả 132.264.986đ (một trăm ba mươi hai triệu, hai trăm sáu mươi bốn nghìn, chín trăm tám mươi sáu đồng) đối với khoản nợ lãi quá hạn là 1.023.150.260đ (một tỷ, không trăm hai mươi ba triệu, một trăm năm mươi nghìn, hai trăm sáu mươi đồng) là không có căn cứ và vi phạm Điều 12 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử xét thấy:
[9] Tại Điều 2 Hợp đồng cho vay số LN1806120725675 ngày 13/6/2018 giữa ngân hàng TMCP V và bà Đàm Thu H:
[10] - Lãi suất cho vay áp dụng đối với dư nợ gốc quá hạn: bằng 150% mức lãi suất cho vay trong hạn áp dụng tại thời điểm chuyển nợ quá hạn.
[11] - Lãi suất chậm trả áp dụng đối với tiền lãi chậm trả: bằng 150% mức lãi suất cho vay trong hạn áp dụng tại thời điểm chậm trả lãi nhưng tối đa không quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
[12] Theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 466 Bộ luật Dân sự đã quy định: “Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này”; điểm b khoản 4 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định: “Trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi theo quy định tại điểm a khoản này, thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số 10 dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả”; khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: “Trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi trên nợ gốc theo thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng, thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá mức lãi suất giới hạn mà pháp luật quy định tương ứng với thời gian chậm trả lãi trên nợ gốc trong hạn” và Điều 12 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm quy định nguyên tắc “chỉ xử lý một lần đối mỗi hành vi không trả nợ đúng hạn”. Do đó, chỉ áp dụng lãi chậm trả đối với lãi trong hạn chưa trả. Điều 2 hợp đồng cho vay số LN1806120725675 ngày 13/6/2018 đã nêu trên, thì lãi chậm trả được áp dụng để tính đối với số tiền lãi trong hạn chưa trả và không có quy định tính lãi chậm trả đối với số tiền lãi quá hạn chưa trả là đúng quy định. Tuy nhiên, Ngân hàng TMCP V khi tính lãi chậm trả theo Bảng kê tính lãi (Bút lục 261, 262), Ngân hàng TMCP V lại tính lãi chậm trả trên lãi quá hạn và lãi trong hạn chưa trả, với số tiền lãi chậm trả là 132.264.986 đồng là không phù hợp với quy định của hợp đồng cũng như quy định của pháp luật. Bản án sơ thẩm chấp nhận toàn bộ số tiền lãi chậm trả này là không chính xác.”
