Đề xuất Án lệ về hiệu lực của điều khoản hạn chế quyền tự do làm việc trong hợp đồng lao động

ĐỀ XUẤT ÁN LỆ VỀ HIỆU LỰC CỦA ĐIỀU KHOẢN HẠN CHẾ QUYỀN TỰ DO LÀM VIỆC TRONG HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG

Tình huống pháp lý:

Công ty là người sử dụng lao động và người lao động ký hết Thỏa thuận cam kết bảo mật thông tin và không cạnh tranh, trong đó có điều khoản quy định người lao động không được làm việc hoặc hợp tác với một doanh nghiệp khác trong một thời hạn nhất định kể từ ngày thôi không còn là nhân viên của Công ty. Doanh nghiệp khác không cùng ngành nghề kinh doanh, không là đối thủ cạnh tranh với Công ty trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Nội dung đề xuất án lệ:

“Căn cứ để Công ty TT khởi kiện cho rằng Anh Nguyễn Đình D vi phạm, phải bồi thường thiệt hại gồm: (1) Thỏa thuận tại điểm f khoản 4.1 Điều 4 của “Thỏa thuận cam kết bảo mật thông tin và không cạnh tranh" ngày 30/9/2019: “Trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày nhân viên thôi không còn là nhân viên của Công ty, nhân viên không làm việc hoặc cộng tác cho bất kỳ cá nhân/đơn vị/doanh nghiệp/công ty dưới bất kỳ hình thức nào để làm việc hoặc thực hiện bất kỳ dự án nào tại nhà máy Công ty TNHH Lọc hóa dầu NS"; (2) Thỏa thuận tại 2 Điều 4 của Hợp đồng lao động, ngày 01/9/2019: “Người lao động tuân thủ và cam kết thực hiện đúng, đủ các thỏa thuận, điều khoản đã ký với Công ty trong Thỏa thuận cam kết bảo mật thông tin và không cạnh tranh"; (3) Anh Nguyễn Đình D không làm việc cho Công ty TT từ ngày 01/03/2021, nhưng ngày 15/6/2021 đã ký hợp đồng lao động với Công ty TNHH lọc hóa dầu NS (chưa hết 12 tháng theo thỏa thuận).

Xét thấy, mặc dù giữa Công ty TT và Anh Nguyễn Đình D đã ký kết “Thỏa thuận cam kết bảo mật thông tin và không cạnh tranh” và “Hợp đồng lao động” có các điều khoản như đã nêu. Tuy nhiên, các thỏa thuận mà các bên ký kết không phù hợp với quy định tại Điều 35 của Hiến pháp về quyền lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc của công dân; trái với quy định tại Điều 5, Điều 10 của Bộ luật lao động về quyền tự do lựa chọn việc làm, làm việc cho bất kỳ người sửdụng lao động nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm của người lao động. Do các thỏa thuận mà Công ty TT và anh D đã ký kết không phù hợp với các quy định của pháp luật nên không có giá trị pháp lý để buộc anh D không được “làm việc hoặc cộng tác cho bất kỳ cá nhân/đơn vị doanh nghiệp/công ty dưới bất kỳ hình thức nào để làm việc hoặc thực hiện bất kỳ dự án nào tại nhà máy Công ty TNHH Lọc hóa dầu NS" trong thời gian 12 tháng từ khi không làm việc tại Công ty TT.

Mặt khác, Công ty TT cho rằng hiện tại anh D làm việc tại Công ty TNHH lọc hóa dầu NS là vi phạm “Thỏa thuận cam kết bảo mật thông tin và không cạnh tranh", nhưng không xuất trình được tài liệu chứng minh Anh Nguyễn Đình D đã sử dụng hoặc đã làm lộ bí mật gì của Công ty TT; trên thực tế Công ty TT và Công ty TNHH lọc hóa dầu NS không cùng ngành nghề kinh doanh, không là đối thủ cạnh tranh với nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Bản án sơ thẩm căn cứ vào các tài liệu Công ty TT xuất trình để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TT, buộc anh D phải bồi thường thiệt hại cho Công ty TT là không có cơ sở, gây thiệt hại quyền và lợi ích hợp pháp của anh D. Vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của anh D và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thị xã NS, áp dụng khoản 2 Điều 308 BLTTDS sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TT.”

Bài viết liên quan

Góp ý