Nội dung sửa án:
Cấp phúc thẩm xét, Thông báo số 64/TB-UBND ngày 28/01/2016 nêu trên là Quyết định giải quyết khiếu nại vì người ký là Chủ tịch UBND thành phố H chứ không phải Chủ tịch UBND thành phố H ký với tư cách "T.M UBND" và nội dung ghi rõ năm 2003 Uỷ ban nhân dân thị xã H đã ban hành "Quyết định về việc thu hồi đất, đền bù đất... Nhà nước đã thực hiện chi tiền đền bù tại dự án hoàn tất trong năm 2003" nhưng cho rằng gia đình cụ G đã biết Quyết định thu hồi đất, quyết định đền bù và đã ký nhận tiền đền bù mà không khiếu nại nên nay khiếu nại là hết thời hạn khiếu nại. Xét, nội dung Thông báo số 64/TB-UBND cho răng cụ G đã biết Quyết định của UBND thị xã H vê thu hôi đât, đên bù đất năm 2003 và cụG đã nhận xong tiền đền bù nhưng cụ G không thừa nhận Cụ đã biết việc UBND thị xã H ban hành Quyết định thu hồi đất, đền bù đất cho Cụ còn Giấy nhận tiền bồi thường năm 2003 không phải chữ ký của Cụ vì Cụ không biết chữ; tuy nhiên hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay phía người bị kiện (có cả Phó Chủ tịch UBND thành phố H) không xuất trình được các Quyết định thu hồi đất, đền bù đất năm 2003 của UBND thị xã H cũng như không xuất trình được tài liệu, chứng cứ về việc đã giao các Quyết định thu hồi đất, đền bù đất năm 2003 (nếu có) cho cụG; như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của cụ G khi bị thu hồi đất chưa được xem xét giải quyết đúng quy định của pháp luật. Hơn nữa, yêu câu khởi kiện của cụ G đối với Thông báo số 64/TB-UBND ngày 28/01/2016 đã được Quyết định giải quyết khiếu nại số 03/QĐ-TA ngày 07/11/2017 (quyết định cuối cùng) của Chánh án Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tuyên bố chấp nhận khiếu nại của cụ G, yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam thụ lý đơn khởi kiện của của cụ G về việc yêu cầu Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam ban hành quyết định giải quyết khiếu nạitheo quy định của pháp luật với nhận định rõ: "...Mặc dù, tại Phiếu hướng dẫn số 191/HD-BTCD, Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam đã hướng dẫn bà Nguyễn Thị G khởi kiện Thông báo số 64/TB-UBND ngày28/01/2016 của Chủ tịch UBND thành phố H ra Tòa án nhân dân thành phố H, nhưng cụ G không khởi kiện mà tiếp tục có các Đơn đề ngày 24/6/2016 và 20/8/2016 đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam giải quyết khiếu nại…Khoản 1 Điều 7 Luật khiếu nại năm 2011 quy định: "Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính". Khoản 2 Điều 21 Luật khiếu nại năm 2011 quy định Chủ tịch UBND cấp tỉnh có thẩm quyền: "Giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch UBND cấp huyện, Giám đốc sở và cấp tương đương đã giải quyết khiếu nại lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết hạn nhưng chưa được giải quyết". Theo quy định tại Điều 5 Luật khiếu nại và khoản 3,4 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì hành vi không giải quyết khiếu nại là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Tại "Đơn khởi kiện" đề ngày 20/3/2017, cụ G đề nghị "Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam ban hành quyết định giải quyêt khiêu nại lân 2 đôi với Thông báo số 64/TB-UBND ngày 28/01/2016 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố H"; do đó, yêu cầu khởi kiện của cụ G thuộc thẩm quyền giải quyết bằng vụ án hành chính tại Tòa án. Như vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xác định đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là việc thu hôi đât, bôi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất của Ủy ban nhân dân thành phố H đối với hộ cụ G là không đúng yêu cầu khởi kiện của cụ G. Từ đó, yêu câu cụ G lựa chọn việc tiếp tục khiếu nại đen người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án và áp dụng Điều 33, điểm e khoản 1 Điều 123 Luật tố tụng hành chính năm 2015, để trả lại đơn khởi kiện cùng các tài liệu, chứng cứ kèm theo cho cụ G là không đúng quy định pháp luật".