Bản án hành chính phúc thẩm số 03/2019/HC-PT ngày 16/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về việc khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Quyết định hủy phương án bồi thường, hỗ trợ đất; Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ do thu hồi đất; Hành vi hành chính về việc không giải quyết khiếu nại, tố cáo, hành vi không trả tiền hỗ trợ đất và yêu cầu bồi thường thiệt hại

Nội dung hủy án:

(i) Như vậy, trong vụ việc khiếu kiện này, Quân khu B là đơn vị quản lý và Trung đoàn EC thuộc Sư đoàn FB - Quân chủng Phòng không Không quân là đơn vị trực tiếp sử dụng diện tích đất trên là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm phải xác minh tư cách pháp nhân của các đơn vị trên để đưa vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, để các đơn vị trên có ý kiến đối với nguồn gốc hai diện tích đất 1.499,3m2 thuộc thửa 20, tờ bản đồ số 02, và diện tích đất 3.336,4m2 thuộc thửa 21, tờ bản đồ số 02, phường Q, thành phố B. Tòa án cấp sơ thẩm không đưa các đơn vị quân đội trên vào tham gia tố tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

(ii) Về thu thập tài liệu, chứng cứ: Xét thấy, tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp và Tòa án thu thập là các bản vẽ, tờ bản đồ địa chính với hai diện tích đất 1.499,3m2 thuộc thửa 20, tờ bản đồ số 02, và diện tích đất 3.336,4m2 thuộc thửa 21, tờ bản đồ số 02, phường Q, thành phố B đều là bản photo, vi phạm quy định về xác định chứng cứ theo khoản 1 Điều 82 Luật tố tụng hành chính 2015 quy định: “Tài liệu đọc được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp ….”.

(iii) Trong quá trình kiểm tra, giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại: Tòa án cấp sơ thẩm ban hành thông báo số 05/TB-TA ngày 05/7/2018 để mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại vào ngày 30/7/2018, thông báo số 07/TB-TA ngày 16/8/2018 để mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại ngày 04/9/2018, đáng lý ra Tòa án cấp sơ thẩm phải tống đạt hoặc thông báo hai văn bản tố tụng trên cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện là ông Hồ Bá M để ông M được biết và tham gia phiên họp, nhưng tại hồ sơ thể hiện là đến ngày 25/10/2018 sau khi nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử thì ông M mới có đơn xin vắng mặt tại các buổi làm việc, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại theo quy định tại Điều 137 Luật Tố tụng hành chính là vi phạm thủ tục tố tụng. Đồng thời tại phiên tòa phúc thẩm, ông N và bà P là người khởi kiện cũng cho rằng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Thẩm phán cấp sơ thẩm không tiến hành đối thoại, không mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà chỉ gọi điện thoại cho vợ chồng ông bà đến để ký vào các biên bản đã soạn sẵn, vấn đề này cấp sơ thẩm cũng chưa làm rõ. Tại đơn khởi kiện của ông N, bà P thì ngoài yêu cầu hủy các quyết định hành chính của UBND thành phố B bao gồm Quyết định số 2305/QĐ-UBND ngày 18/5/2012, Quyết định số 4359/QĐ-UBND ngày 15/8/2012, Quyết định số 4822/QĐ-UBND ngày 31/7/2013 ông N, bà P còn khởi kiện các hành vi hành chính của Chủ tịch UBND thành phố B như: Hành vi không giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo, hành vi không trả tiền hỗ trợ đất còn thiếu là 160.728.000đ, hành vi không thực hiện đúng Quyết định số 07/2007 của UBND tỉnh Đồng Nai quy định về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, trả tiền trả chậm theo lãi suất ngân hàng Nhà nước quy định là 72.292.640đ, tiền phạt chậm trả tính đến ngày 20/11/2018 là 139.784.640đ, tiền bồi thường thiệt hại về tinh thần là 8.300.000đ. Trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, ông N, bà P xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với hành vi hành chính: yêu cầu tiền trả lãi chậm theo lãi suất ngân hàng là 72.292.640đ, tiền bồi thường thiệt hại về tinh thần là 8.300.000đ, hành vi không giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, nhưng trong bản án sơ thẩm vẫn xác định quan hệ tranh chấp là “Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Quyết định hủy phương án bồi thường, hỗ trợ đất; Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ do thu hồi đất; Hành vi hành chính về việc không giải quyết khiếu nại, tố cáo, hành vi không trả tiền hỗ trợ đất và yêu cầu bồi thường thiệt hại” là không phù hợp, vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự.

(iv) Trong đơn khởi kiện, ông N và bà P có yêu cầu giải quyết số tiền hỗ trợ đất còn thiếu là 160.728.000đ, nhưng trong phần quyết định của bản án sơ thẩm không xem xét giải quyết vấn đề này là bỏ sót yêu cầu khởi kiện của đương sự.

Bài viết liên quan

Góp ý