Nội dung hủy án:
(i) Ngày 13/10/2023, ông Lục Gia C và bà Phan Thị H có đơn yêu cầu độc lập tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/5/2023 giữa ông Lâm Văn K với ông Lục Gia C. Ngày 8/5/2024, bà Võ Thị T có đơn khởi kiện bổ sung tranh chấp hợp đồng chuyên nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/5/2023 giữa ông Lâm Văn K với ông Lục Gia C. Sau khi thụ lý yêu cầu độc lập của ông C, bà H và yêu cầu bổ sung của bà T, Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành thông báo cho bị đơn biết mà tiến hành giải quyết vắng mặt bị đơn theo đơn xin vắng mặt ngày 12/9/2023 của ông Nguyễn Đình P mà không tiến hành tống đạt cho bị đơn là vi phạm các Điều 170, 177, 196, 199 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
(ii) Theo quyết định phân công kiểm sát viên ngày 5/6/2023 (bút lục 28) và quyết định đưa vụ án ra xét xử ngày 02/7/2024 (bút lục 157) thì kiểm sát viên là bà Đinh Thị Y nhưng kiểm sát viên tham gia phiên tòa là bà Nguyễn Thị Thanh B mà không có quyết định thay đổi kiểm sát viên là vi phạm Điều 62 của Bộ luật tố tụng dân sự.
(iii) Trước đây, bà Võ Thị T có nhận chuyển nhượng của bà Bùi Thị H1 và ông Phạm Văn K1 phần đất có diện tích 1.082,6m² thuộc thửa đất số 766, tờ bản đồ số 34 tại ấp H, xã M, huyện D nhưng không lập hợp đồng chuyển nhượng mà bà H1 và ông K1 đã ủy quyền cho bà T toàn quyền quyết định đối với thửa đất này theo hợp đồng ủy quyền số 05813, quyển số 05/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 12/5/2022 của Văn phòng C2, tỉnh Bình Dương. Ngày 16/5/2023, bà T có vay ông Lâm Văn K 200.000.000 đồng với lãi suất 2,5%/ tháng, thời hạn vay 3 tháng và cầm giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất trên. Để làm tin, ông K có yêu cầu bà T ký hợp đồng ủy quyền số 02642, quyển số 05/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/5/2023 của Văn phòng C1, tỉnh Bình Dương. Ngày 18/5/2023, ông K và ông Lục Gia C ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phần đất trên với giá 100.000.000 đồng và được Ủy ban nhân dân xã M, huyện D chứng thực số 120 quyền số 01/2023-SCT/HĐ, GD. Trên thực tế, giá chuyển nhượng giữa ông K và ông C là 450.000.000 đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm nhận định hợp đồng ủy quyền số 02642, quyển số 05/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/5/2023 của Văn phòng C1, tỉnh Bình Dương là giả tạo nhằm che giấu việc vay tiền nhưng lại xác định quan hệ tranh chấp là “tranh chấp hợp đồng ủy quyền, yêu cầu văn bản công chứng vô hiệu, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” là chưa chính xác và thiếu quan hệ tranh chấp. Quan hệ tranh chấp: “tranh chấp hợp đồng ủy quyền, hợp đồng vay tài sản, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Đồng thời, Tòa án cấp sơ thẩm lại ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn và bị đơn hủy hợp đồng ủy quyền số 02642, quyển số 05/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/5/2023 của Văn phòng C1, tỉnh Bình Dương mà không giải quyết hợp đồng vay tài sản là chưa giải quyết triệt để vụ án.
Tòa án cấp sơ thẩm xác định hợp đồng ủy quyền số 02642, quyền số 05/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/5/2023 của Văn phòng C1, tỉnh Bình Dương là vô hiệu do giả tạo nhưng lại công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/5/2023 giữa ông Lâm Văn K và ông Lục Gia C được Ủy ban nhân dân xã M, huyện D chứng thực số 120 quyển số 01/2023-SCT/HĐ,GD có hiệu lực là không chính xác vì hợp đồng chuyên này dựa trên hợp đồng ủy quyền giả tạo, các đương sự chuyển nhượng qua lại cho nhau nhiều lần nhưng làm hợp đồng ủy quyền nhằm trốn tránh nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, giả tạo về giá chuyển nhượng.
Đối với ông Lâm Văn K, thừa nhận có cho bà T vay tiền và thế chấp quyền sử dụng đất bằng hợp đồng ủy quyền. Sau đó, ông K chuyển nhượng phần đất này cho ông C khi chưa được sự đồng ý của bà T. Hành vi của ông K có dấu hiệu của tội xâm phạm sở hữu nên khi giải quyết lại cấp sơ thẩm cần làm rõ dấu hiệu trên.
(iv) Từ những phân tích ở mục [1] và [2], do Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và đường lối giải quyết vụ án nên Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.