
Bố mẹ có được quyền tặng cho con rể nhà, đất của hộ gia đình hay không?
Câu hỏi: Tôi hiện đang là con rể trong gia đình, vợ tôi không may bị tai nạn giao thông nghiêm trọng cách đây nhiều năm, từ đó lâm vào tình trạng thực vật và phải nằm liệt giường, hoàn toàn mất khả năng lao động cũng như nhận thức. Trong suốt thời gian qua, tôi vừa lo công việc mưu sinh, vừa gánh vác trách nhiệm chăm sóc vợ và nuôi dạy con nhỏ, cuộc sống vô cùng khó khăn và đầy áp lực. Hiện nay, cả gia đình tôi, bao gồm bố mẹ vợ, các anh chị em bên vợ và cả tôi đều có tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với một thửa đất, được Nhà nước cấp dưới hình thức hộ gia đình sử dụng đất.
Gần đây, xuất phát từ sự cảm thông trước hoàn cảnh “gà trống nuôi con” của tôi, bố mẹ vợ đã bày tỏ nguyện vọng muốn tặng cho riêng tôi quyền sử dụng thửa đất này để tôi có điều kiện ổn định chỗ ở, tích lũy tài sản, lo cho con và giảm bớt gánh nặng trong cuộc sống. Mong muốn này cũng thể hiện sự ghi nhận của bố mẹ vợ đối với sự gắn bó, hi sinh và trách nhiệm mà tôi đã dành cho gia đình trong suốt thời gian qua.
Tuy nhiên, tôi đang hết sức băn khoăn liệu việc ba mẹ vợ tặng cho đất con rể có hợp pháp không? Nếu pháp luật cho phép thì tôi cần phải đáp ứng những điều kiện gì?
Vì vậy, tôi rất cần được tư vấn kỹ lưỡng về các điều kiện pháp lý bắt buộc để đảm bảo mong muốn của bố mẹ vợ tôi được thực hiện một cách hợp pháp, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của tôi cũng như duy trì sự hòa thuận, ổn định trong gia đình.
MỤC LỤC
1. Con rể có phải là thành viên trong gia đình hay không?
2. Quyền sử dụng đất thuộc sở hữu chung hộ gia đình được quy định thực hiện như thế nào?
3. Bố mẹ có được quyền tặng cho con rể nhà, đất của hộ gia đình hay không?
Trả lời:
1. Con rể có phải là thành viên trong gia đình hay không?
Căn cứ theo khoản 16 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về thành viên hộ gia đình như sau:
“Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
…
16. Thành viên gia đình bao gồm vợ, chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng; con đẻ, con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng, con dâu, con rể; anh, chị, em cùng cha mẹ, anh, chị, em cùng cha khác mẹ, anh, chị, em cùng mẹ khác cha, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà nội, ông bà ngoại; cháu nội, cháu ngoại; cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột.”
Dựa vào quy định trên, có thể thấy một cách rõ ràng và có căn cứ pháp lý rằng: Con rể là thành viên trong gia đình theo pháp luật. Quy định này đã liệt kê cụ thể các quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng, trong đó bao gồm cả quan hệ “con dâu” và “con rể”, cho thấy pháp luật thừa nhận mối quan hệ hôn nhân phát sinh giữa con trai, con gái trong gia đình với vợ hoặc chồng của họ cũng là một dạng quan hệ gia đình hợp pháp.
Việc xác định con rể là thành viên gia đình không chỉ có ý nghĩa về mặt đạo lý khi con rể trở thành một phần của gia đình chồng, gắn bó trong đời sống chung mà còn mang ý nghĩa pháp lý sâu sắc, tạo cơ sở để áp dụng các quyền, nghĩa vụ giữa các thành viên gia đình với nhau trong nhiều lĩnh vực như chăm sóc, cấp dưỡng, thừa kế hoặc tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự khác.
2. Quyền sử dụng đất thuộc sở hữu chung hộ gia đình được quy định thực hiện như thế nào?
Việc quyền sử dụng đất thuộc sở hữu chung hộ gia đình được quy định tại Điều 212 Bộ luật Dân sự năm 2015 và khoản 25 Điều 3 Luật Đất đai năm 2024 như sau:
“Điều 3. Giải thích từ ngữ
…
25. Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành.”
và
“Điều 212. Sở hữu chung của các thành viên gia đình
1. Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.
2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác.
Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 213 của Bộ luật này.”
Dẫn chiếu đến Điều 213 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như sau:
“Điều 213. Sở hữu chung của vợ chồng
1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.
5. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này.”
Theo đó, quyền sử dụng đất thuộc sở hữu chung của hộ gia đình được xác định là tài sản chung hợp nhất của các thành viên trong hộ có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng và cùng đang chung sống tại thời điểm Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất hoặc nhận chuyển quyền sử dụng đất.
Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt quyền sử dụng đất này phải được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận của tất cả các thành viên đã thành niên, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Đặc biệt, khi quyền sử dụng đất được coi là tài sản chung đặc biệt (bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn sống chủ yếu của gia đình) thì mọi quyết định định đoạt đều phải có sự thống nhất ý chí của toàn bộ thành viên đủ điều kiện pháp luật, nhằm bảo đảm sự công bằng, minh bạch và tránh xung đột lợi ích.
Trong trường hợp không đạt được sự thỏa thuận chung, quan hệ pháp lý về sở hữu sẽ được xử lý theo quy định về sở hữu chung theo phần, trừ trường hợp quyền sử dụng đất là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng thì áp dụng quy định tại Điều 213 Bộ luật Dân sự 2015 đối với việc sở hữu chung của vợ chồng.
Do đó, cơ chế pháp lý về quyền sử dụng đất thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vừa đảm bảo nguyên tắc thỏa thuận, vừa có cơ chế pháp luật bổ trợ khi phát sinh tranh chấp, qua đó khẳng định tính chặt chẽ, khoa học và thống nhất trong điều chỉnh quan hệ tài sản này.
Tuy nhiên, cần lưu ý phân biệt giữa khái niệm thành viên gia đình trong Luật Hôn nhân và gia đình với khái niệm thành viên hộ gia đình sử dụng đất trong Luật Đất đai. Dù con rể là thành viên gia đình theo quy định hôn nhân và gia đình nhưng để được xác định là người có quyền sử dụng đất chung trong hộ gia đình thì phải thỏa mãn điều kiện cụ thể theo Luật Đất đai (Ví dụ: Có tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc thuộc diện cùng chung sống và có quyền sử dụng đất tại thời điểm được Nhà nước giao đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền).
Do đó, kết luận toàn diện là con rể theo pháp luật hôn nhân và gia đình được công nhận là thành viên gia đình nhưng quyền và nghĩa vụ của con rể trong các quan hệ pháp lý cụ thể như quản lý và định đoạt đất đai của hộ gia đình, cần được xem xét trong khuôn khổ pháp luật chuyên ngành có liên quan.
3. Bố mẹ có được quyền tặng cho con rể nhà, đất của hộ gia đình hay không?
Từ các căn cứ pháp lý đã nêu trên, có thể thấy quyền sử dụng đất đứng tên hộ gia đình là tài sản thuộc quyền sử dụng chung của các thành viên hộ có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng và đang cùng chung sống tại thời điểm Nhà nước giao, cho thuê, công nhận hoặc khi nhận chuyển quyền. Do là bất động sản, mọi quyết định định đoạt (chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn,…) đối với quyền sử dụng đất này bắt buộc phải có sự thỏa thuận của tất cả thành viên đã thành niên và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, trừ khi luật có quy định khác. Nguyên tắc “đồng thuận toàn bộ” này nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch, bảo vệ lợi ích chính đáng của từng thành viên và phòng ngừa tranh chấp phát sinh.
Hệ quả pháp lý trực tiếp chính là việc chuyển quyền sử dụng đất từ hộ gia đình sang cá nhân nào đó trong hộ gia đình chỉ hợp pháp khi toàn bộ thành viên đủ điều kiện pháp luật trong hộ đồng ý. Sự đồng ý cần được thể hiện rõ ràng, bằng văn bản, với chữ ký của từng người (hoặc chữ ký của người đại diện hợp pháp đối với người chưa thành niên/không có/ bị hạn chế năng lực hành vi) và phải tuân thủ hình thức theo quy định pháp luật.
Trường hợp thiếu sự đồng thuận hợp lệ của bất kỳ thành viên nào, giao dịch có nguy cơ bị tuyên vô hiệu toàn bộ hoặc một phần, kéo theo hệ lụy phục hồi tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận và phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại (nếu có).
Về phương thức thực hiện, hộ gia đình có thể tặng cho toàn bộ quyền sử dụng đất cho một cá nhân hoặc chuyển nhượng cho một cá nhân. Dù lựa chọn phương thức nào, điều kiện tiên quyết vẫn là sự đồng thuận của tất cả các thành viên đáp ứng điều kiện theo luật.
Như vậy, khi áp dụng vào tình huống cụ thể: Cha mẹ vợ bạn có thể tặng cho bạn quyền sử dụng đất thuộc hộ gia đình khi và chỉ khi tất cả các thành viên khác của hộ gia đình đồng ý và tham gia xác lập ý chí theo đúng trình tự, hình thức pháp luật quy định. Thực hiện đúng những yêu cầu này không chỉ là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà còn là biện pháp phòng ngừa tranh chấp, bảo đảm tính bền vững của quyền đối với bất động sản sau khi chuyển dịch.
Trân trọng./.