Bố mẹ có được quyền tặng cho con gái nhà, đất của hộ gia đình hay không?

Bố mẹ có được quyền tặng cho con gái nhà, đất của hộ gia đình hay không?

Bố mẹ có được quyền tặng cho con gái nhà, đất của hộ gia đình hay không?

Luật sư cho tôi hỏi: Tôi là con gái út trong gia đình có tất cả 03 anh em ruột, hiện nay cả nhà đều cùng đứng tên quyền sử dụng một thửa đất dưới hình thức hộ gia đình. Gần đây, ba mẹ tôi có nguyện vọng muốn tặng cho riêng cho các anh tôi phần đất này để làm tài sản tích lũy, chuẩn bị cho việc cưới vợ và ổn định cuộc sống sau này. Ba mẹ tôi nghĩ rằng con gái sau này đi lấy chồng thì cũng khó trông cậy được gì nên không chia tôi được tấc đất nào cả và vấn đề “trọng nam khinh nữ” ở nhà tôi đã diễn ra từ nhiều đời. Vì vậy, tôi băn khoăn không biết việc tặng cho quyền sử dụng đất đứng tên hộ gia đình trong trường hợp của mình có được pháp luật cho phép hay không và cần phải đáp ứng các điều kiện gì để giao dịch này hợp pháp?

MỤC LỤC

1. “Trọng nam khinh nữ” là gì?

2. Quyền sử dụng đất thuộc sở hữu chung hộ gia đình được quy định thực hiện như thế nào?

3. Bố mẹ có được quyền tặng cho con gái nhà, đất của hộ gia đình hay không?

 

Trả lời:

1. “Trọng nam khinh nữ” là gì?

“Trọng nam khinh nữ” được hiểu là một quan niệm mang tính phân biệt đối xử dựa trên giới tính, đi ngược lại với nguyên tắc bình đẳng đã được Hiến pháp và pháp luật Việt Nam ghi nhận. Cụ thể, Điều 16 Hiến pháp năm 2013 khẳng định:

Điều 16.

1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.”

Đồng thời, tại Điều 10 Luật Bình đẳng giới năm 2006 cũng nghiêm cấm các hành vi phân biệt, phân biệt đối xử nam nữ dưới bất kỳ hình thức nào, bao gồm việc coi trọng nam giới hơn nữ giới trong gia đình và ngoài xã hội.

Điều 10. Các hành vi bị nghiêm cấm

1. Cản trở nam, nữ thực hiện bình đẳng giới.

2. Phân biệt đối xử về giới dưới mọi hình thức.

3. Bạo lực trên cơ sở giới.

4. Các hành vi khác bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật.

Tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, mặc dù bắt nguồn từ lịch sử và tồn tại lâu dài trong xã hội, nhưng trong bối cảnh pháp luật hiện hành, đây là hành vi trái với nguyên tắc bình đẳng giới và quyền con người. Việc duy trì hoặc áp đặt quan niệm này có thể dẫn tới những hành vi vi phạm pháp luật cụ thể như: Từ chối cho con gái quyền thừa kế đất đai, tài sản; Cản trở phụ nữ tiếp cận cơ hội học tập, việc làm; hoặc phân biệt trong quyền tham gia quản lý, quyết định các vấn đề gia đình.

Do vậy, dưới góc độ pháp lý, “trọng nam khinh nữ” không chỉ là quan niệm lạc hậu cần xóa bỏ mà còn là hành vi trái luật, đi ngược lại cam kết của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân và bảo đảm sự công bằng, tiến bộ trong xã hội.

2. Quyền sử dụng đất thuộc sở hữu chung hộ gia đình được quy định thực hiện như thế nào?

Việc quyền sử dụng đất thuộc sở hữu chung hộ gia đình được quy định tại Điều 212 Bộ luật Dân sự năm 2015 và khoản 25 Điều 3 Luật Đất đai năm 2024 như sau:

“Điều 3. Giải thích từ ngữ

25. Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành.”

“Điều 212. Sở hữu chung của các thành viên gia đình

1. Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.

2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác.

Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 213 của Bộ luật này.”

Dẫn chiếu đến Điều 213 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như sau:

Điều 213. Sở hữu chung của vợ chồng

1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.

2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.

5. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này.”

Theo đó, quyền sử dụng đất thuộc sở hữu chung của hộ gia đình được xác định là tài sản chung hợp nhất của các thành viên trong hộ có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng và cùng đang chung sống tại thời điểm Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất hoặc nhận chuyển quyền sử dụng đất.

Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt quyền sử dụng đất này phải được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận của tất cả các thành viên đã thành niên, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Đặc biệt, khi quyền sử dụng đất được coi là tài sản chung đặc biệt (bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn sống chủ yếu của gia đình) thì mọi quyết định định đoạt đều phải có sự thống nhất ý chí của toàn bộ thành viên đủ điều kiện pháp luật, nhằm bảo đảm sự công bằng, minh bạch và tránh xung đột lợi ích.

Trong trường hợp không đạt được sự thỏa thuận chung, quan hệ pháp lý về sở hữu sẽ được xử lý theo quy định về sở hữu chung theo phần, trừ trường hợp quyền sử dụng đất là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng thì áp dụng quy định tại Điều 213 Bộ luật Dân sự 2015 đối với việc sở hữu chung của vợ chồng.

Do đó, cơ chế pháp lý về quyền sử dụng đất thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vừa đảm bảo nguyên tắc thỏa thuận, vừa có cơ chế pháp luật bổ trợ khi phát sinh tranh chấp, qua đó khẳng định tính chặt chẽ, khoa học và thống nhất trong điều chỉnh quan hệ tài sản này.

3. Bố mẹ có được quyền tặng cho con gái nhà, đất của hộ gia đình hay không?

Từ các căn cứ pháp lý đã nêu trên, có thể thấy quyền sử dụng đất đứng tên hộ gia đình là tài sản thuộc quyền sử dụng chung của các thành viên hộ có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng và đang cùng chung sống tại thời điểm Nhà nước giao, cho thuê, công nhận hoặc khi nhận chuyển quyền. Do là bất động sản, mọi quyết định định đoạt (chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn,…) đối với quyền sử dụng đất này bắt buộc phải có sự thỏa thuận của tất cả thành viên đã thành niên và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, trừ khi luật có quy định khác. Nguyên tắc “đồng thuận toàn bộ” này nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch, bảo vệ lợi ích chính đáng của từng thành viên và phòng ngừa tranh chấp phát sinh.

Hệ quả pháp lý trực tiếp chính là việc chuyển quyền sử dụng đất từ hộ gia đình sang cá nhân nào đó trong hộ gia đình chỉ hợp pháp khi toàn bộ thành viên đủ điều kiện pháp luật trong hộ đồng ý. Sự đồng ý cần được thể hiện rõ ràng, bằng văn bản, với chữ ký của từng người (hoặc chữ ký của người đại diện hợp pháp đối với người chưa thành niên/không có/ bị hạn chế năng lực hành vi) và phải tuân thủ hình thức theo quy định pháp luật.

Trường hợp thiếu sự đồng thuận hợp lệ của bất kỳ thành viên nào, giao dịch có nguy cơ bị tuyên vô hiệu toàn bộ hoặc một phần, kéo theo hệ lụy phục hồi tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận và phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại (nếu có).

Về phương thức thực hiện, hộ gia đình có thể tặng cho toàn bộ quyền sử dụng đất cho một cá nhân hoặc chuyển nhượng cho một cá nhân. Dù lựa chọn phương thức nào, điều kiện tiên quyết vẫn là sự đồng thuận của tất cả các thành viên đáp ứng điều kiện theo luật.

Như vậy, khi áp dụng vào tình huống cụ thể: Cha mẹ bạn không có toàn quyền đơn phương quyết định việc tặng cho quyền sử dụng đất đứng tên hộ gia đình cho các anh trai bạn mà bỏ qua quyền lợi của bạn. Điều đó đồng nghĩa, nếu bạn là thành viên hộ gia đình và có tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện pháp lý để được xác định là đồng chủ sử dụng đất thì cha mẹ bạn không thể tự ý tặng cho riêng các anh bạn mà không có sự đồng ý của bạn.

Về nguyên tắc, cha mẹ bạn có thể tặng cho bạn hoặc tặng cho các anh bạn nhưng điều kiện tiên quyết là phải có sự đồng thuận của tất cả các thành viên trong hộ gia đình, bao gồm cả bạn. Nếu không đáp ứng, giao dịch sẽ không được pháp luật công nhận. Do đó, quan niệm “trọng nam khinh nữ” trong trường hợp này không thể là căn cứ hợp pháp để cha mẹ bạn loại trừ quyền lợi của bạn và điều này đang đi ngược lại với đạo đức xã hội và cả chủ trương của quy định pháp luật.

Trân trọng./.

Góp ý