Bản án hình sự phúc thẩm số 159/2019/HS-PT ngày 11/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử về tội “Cướp tài sản” đối với các bị cáo Nguyễn Hữu C, Nguyễn Hữu T và Lê Hoàng P do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Hữu C, Nguyễn Hữu T và Lê Hoàng P

Nội dung hủy án 

(i) Bị hại Hoàng Ngọc V1 bị chiếm đoạt số tiền là bao nhiêu, lời khai của các bị hại với bị cáo mâu thuẫn với nhau, cụ thể: Biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, ông V1 tố giác bị cướp số tiền 71.000.000 đồng, bà T1 28.000.000 đồng cùng 01 xe mô tô biển số 59B1-588.80; Đơn tố giác tội phạm, ông V1 trình bày mất số tiền gần 60.000.000 đồng; Biên bản ghi lời khai, ông V1 khai bị chiếm đoạt tổng cộng 71.000.000 đồng, gồm 66.000.000 đồng tiền mang theo và 5.000.000 đồng tiền thắng game (Bút lục số 73, 76, 125 -127). Các lời khai của ông V1 lại phù hợp với lời khai của bà T1 có trong quá trình điều tra vụ án, như: Đơn xin rút lại Tờ đơn xin rút tố cáo và đơn bãi nại, Biên bản ghi lời khai ngày 26-4-2021 có nội dung như sau “…Khoảng 13 giờ ngày 12-4-2021, tôi đến quán cà phê đã hẹn và gặp anh V1, anh H1. Sau khi ngồi được một lúc, anh S nhân viên quán dê Thịnh P5 và đi cùng 03 người nữa tôi không biết tên. Anh S và 03 người này cùng đi đến, để thay mặt anh C để đền bù thiệt hại cho tôi và V1. Sử nói, đền bù cho V1 71.000.000 đồng tiền C giữ của V1 và thêm 100.000.000 đồng là tiền thiệt hại cho V1, tổng cộng là 171.000.000 đồng. Riêng tôi, S thay C đền bù cho tôi 50.000.000 đồng. …” (Bút lục số 75, 115 và 116). Ngoài các lời khai trên, ông V1 không có thêm lời khai khác. Trong khi đó, bị cáo P khai, thấy C2 lấy ví da của V1 kiểm tra và lấy ra số tiền 3.000.000 đồng để dưới ví da. Khi đưa V1 đi cấp cứu, P lấy số tiền này để thanh toán viện phí. Ngoài ra, tại phần nội dung của Bản án sơ thẩm thể hiện bị cáo P có 02 lần lấy tiền của bị hại V1 như sau: “... P lấy 3.000.000 đồng để dưới ví da của V1 đi theo sau để trả tiền điều trị...;... K1 lái xe ô tô chở P quay lại tiệm game. P lấy tiền và chìa khóa công tắc điện xe mô tô của T1 trên máy game cất trong tủ tiền của tiệm game và lấy ví da cá nhân của V1 bên trong có 3.000.000 đồng quay lại phòng khám N1 gặp V1. P trả tiền viện phí cho V1 hết 2.070.000 đồng và trả ví da cho V1, còn lại 930.000 đồng P giữ và cùng K1 ra về...” (trang 04 của Bản án sơ thẩm).

(ii) Bị hại Nguyễn Thị Huyền T1, lời khai sau lại có mâu thuẫn với lời khai trước, cụ thể: Biên bản ghi lời khai ngày 17-8-2020 (Bút lục số 121 -122), T1 khai có những nội dung sau: ...C nói với nhân viên “Tụi bây sập cửa xuống, không cho ai ra, tao đánh bọn này chết, sau đó có 02 nhân viên (không biết tên) ra đóng cửa lại...”...“C hỏi tôi, mày ăn của tao bao nhiêu tiền bỏ ra, tôi nói em ăn 10.000.000 đồng, thì tôi lấy ra 10.000.000 đồng đưa cho P, P lấy 10.000.000 đồng để lên máy game rồi lấy cái bóp của tôi dằn lên. Lúc này, C hỏi P nó nạp bao nhiêu tiền, P nói nạp 2.000.000 đồng, C kêu P trả lại cho tôi 2.000.000 đồng. P lấy 2.000.000 đồng cùng với cái bóp đưa lại cho tôi, còn 8.000.000 đồng P để lại trên màn hình máy game...”...“Sau khi V1 được đưa đi Bệnh viện, còn lại T8 bị C đánh, khoảng 10 phút sau thì có 01 người chạy đến nói có Công an đến Bệnh viện, thì C chỉ tay vào mặt tôi nói với nhân viên của C ” “Tụi mày giữ con này lại, giữ tiền, giữ xe nó cho tao” nghe vậy tôi lấy 20.000.000 đồng trong túi quần ra đếm trước mặt C và Đ thì tôi nói với C tiền của tôi 20.000.000 đồng thì tôi đem tất cả 20.000.000 đồng và chìa khóa xe của tôi để trên màn hình máy game. Khi thấy tôi để tài sản xong, thì C và Đ bỏ đi đâu tôi không biết. Sau đó, thì nhân viên của C cho tôi về....”; Biên bản ghi lời khai ngày 08-3-2021 tại bút lục số 117-118, T1 lại khai “...C kêu 02 thanh niên đi chung lôi V1 vào trong và nói Đóng cửa lại, đập chết mẹ nó cho tao”. “Lúc này, quản lý của tiệm game có ra đóng một bên cửa lại...”; “....C quay sang tôi nói “mày ăn tao bao nhiêu” thì có một thanh niên đi chung C nắm tóc tôi, tôi nói “Tôi không liên quan”, nên người này thả ra, tôi nói lúc nãy có xuống 10.000.000 đồng tiền điểm, C kêu tôi lấy ra, tôi lấy 10.000.000 đồng trong bóp ra để trên cái bóp của anh V1...”; “...Sau khi nhân viên của C về nói có Công an, C quay sang tôi nói “Mày ăn tao mấy bữa nay bao nhiêu tiền” tôi nói khoảng 17.000.000 đồng, thì C nói vậy tao phạt mày gấp đôi, trả lại tao 34.000.000 đồng. Tôi nói chỉ có 20.000.000 đồng thì C nói “Mày đi bằng gì” tôi nói xe máy thì C kêu để tiền và xe lại khi nào có đủ đến lấy xe. Tôi lấy ra 20.000.000 đồng trong bóp đếm, lúc này C ngồi trên ghế bố cạnh chỗ tôi, tôi để số tiền 20.000.000 đồng và chìa khóa xe mô tô lại trên máy game thứ 2 bên phải C. Lúc này, C cùng với Đ đi ra khỏi tiệm game. Khoảng 10 phút sau, nhân viên của C bảo tôi về đi, tôi cùng T8 bỏ về...”. Cấp sơ thẩm chưa điều tra làm rõ: Bị cáo P có lấy số tiền 10.000.000 đồng trực tiếp từ bị hại Trân hay bị hại T1 tự lấy ra để gần với số tiền 3.000.000 đồng của bị hại V1? Bị cáo Phúc đóng toàn bộ cửa hay chỉ bấm một bên cửa cuốn của Chi nhánh A? Đặc điểm của cửa tại Chi nhánh A thời điểm xảy ra vụ án như thế nào? Việc bị cáo P đóng cửa, là giúp sức cho hành vi đánh V1 của bị cáo C hay giúp sức để bị cáo C chiếm đoạt tài sản sau đó của bị hại V1 và T1? Giữa bị cáo C, T và bị cáo P có bàn bạc với nhau trước về việc chiếm đoạt tài sản của các bị hại không? Ý thức của bị cáo C chiếm đoạt số tiền 34.000.000 đồng từ bị hại T1 hay chiếm đoạt số tiền 28.000.000 đồng của T1 đã để ra bên ngoài trên màn hình máy game cùng với xe mô tô của bị hại T1 để lại? Tội phạm đã hoàn thành thời điểm nào, đối với hành vi của bị cáo C về việc chiếm đoạt đối với số tiền 3.000.000 đồng của bị hại V1; 8.000.000 đồng, 20.000.000 đồng và xe mô tô của bị hại T1? Tương ứng với vai trò đồng phạm của các bị cáo P và T như thế nào? Hay hành vi của các bị cáo P và T cấu thành tội phạm khác?.

(iii) Ngoài ra, cấp sơ thẩm chưa điều tra thu thập đầy đủ để chứng minh Chi nhánh A do ai làm chủ thực sự, cụ thể: Tại Giấynhận đăng ký hoạt động chi nhánh, đăng ký thay đổi lần thứ 1, ngày 30-5-2020 do Phòng đăng ký kinh doanh của Sở Y cấp, đối với Chi nhánh A, địa chỉ: Số nhà F, ấp E, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An, thông tin về người đứng đầu là bà Nguyễn Thị H; các lời khai của các bị cáo C, P và T ban đầu tại tại cơquan điều tra cho rằng: Chi nhánh A là do bị cáo C làm chủ; Sau đó các bị cáo đều thay đổi lời khai, cho rằng: Chi nhánh An Tài LộcPhát này do bà Nguyễn Thị H làm chủ; Tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ để điều tra làm rõ nội dung này, nhưng Viện kiểm sát cấp sơ thẩm chỉ xác minh, thể hiện bà H hiện không có mặt tại nơi cư trú.

(iv) Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo C trình bày: Ông Nguyễn Minh H2 là người có mặt tại Chi nhánh A và cùng chơi game chung với bà T1 tại thời điểm bị cáo C đánh V1, bảo V1 và T1 trả tiền thắng game lại, ông H2 cũng bảo bà T1 trả lại; Ông H2 là người được các bị hại T1 và V1 ủy quyền để nhận tiền bồi thường từ bị cáo C với tổng số tiền là 371.000.000 đồng (bị cáo C cùng ông S có cung cấp file ghi âm và hình ảnh các lần giao nhận tiền), nhưng bị hại T1 và V1 trình bày chỉ nhận được số tiền 150.000.000 đồng. Do đó, cần triệu tập ông H2 để làm rõ về nội dung vụ án cũng như tiền bồi thường của bị cáo C cho các bị hại là bao nhiêu? Có hay không có việc cơ quan Công an huyện Đ thu giữ 02 đầu ghi Cameratại Nhà hàng của bị cáo C và tại Chi nhánh A? Nếu có, nội dung chứa đựng thông tin gì của vụ án tại Chi nhánh A?.

(v) Ngày 27-8-2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ đã có Kếtluận về định giá tài sản số 114/KL.ĐGTS đối với xe mô tô biển số 59B1- 558.80. Nhưng sau đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ không có thông báo kết luận về định giá tài sản cho các bị cáo biết, để có ý kiến về kết luận định giá theo quy định tại các khoản 2 và 3 Điều 222 Bộ luật Tố tụng hình sự. Sau đó, các bị cáo khiếu nại nhưng không được xem xét giải quyết.

(vi) Các Biênbản ghi lời khai; Biên bản hỏi cung đối với các bị cáo C, T và P trong hồ sơ vụ án chỉ thể hiện bị cáo ký tên tại phần giải thích quyền và nghĩa vụ và tại phần kết của biên bản. Trong khi đó, các Biên bản này được lập, đánh số nhiều tờ, có nhiều trang, có đầy đủ nội dung, nhưng không có chữ ký xác nhận của các bị cáo tại từng trang của biên bản là vi phạm khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bài viết liên quan

Góp ý