Tổng hợp 10 bản án hủy, sửa về tranh chấp liên quan đến yêu cầu cấp dưỡng

MỤC LỤC

1. Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 01/2017/HNGĐ-PT ngày 05/12/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La về việc tranh chấp về mức cấp dưỡng nuôi con

2. Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 18/2024/HNGĐ-PT ngày 09/8/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang về việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung

3. Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 42/2019/HNGĐ-PT ngày 24/10/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau về việc tranh chấp cấp dưỡng nuôi con

4. Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 10/2018/HNGĐ-PT ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên về việc tranh chấp cấp dưỡng nuôi con

5. Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 62/2024/HNGĐ-PT ngày 22/5/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp về cấp dưỡng

6. Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 03/2023/HNGĐ-PT ngày 24/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình về việc yêu cầu thay đổi cấp dưỡng nuôi con

7. Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 08/2023/HNGĐ-PT ngày 09/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa về việc tranh chấp ly hôn

8. Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 03/2018/HNGĐ-PT ngày 08/02/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con

9. Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 02/2022/HNGĐ-PT ngày 23/02/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình về việc tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con

10. Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 14/2021/HNGĐ-PT ngày 30/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình về việc tranh chấp tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con

 

1. Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 01/2017/HNGĐ-PT ngày 05/12/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La về việc tranh chấp về mức cấp dưỡng nuôi con

Nội dung hủy án:

(i) Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 27/7/2017, Tòa án cấp sơ thẩm thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và đưa vụ án ra xét xử (lần 1), ấn định thời gian mở phiên hòa giải và phiên tòa lần lượt vào hồi 08 giờ 00 phút và 10 giờ 00 phút cùng ngày 11/8/2017. Căn cứ khoản 2 Điều 147 và khoản 1 Điều 148 Bộ luật dân sự thì xác định thời hạn mở phiên tòa là 14 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, thời hạn này không phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự về thời hạn chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu. Việc thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và quyết định đưa vụ án ra xét xử cùng một ngày cũng không phù hợp với quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 203 và khoản 1 Điều 205 Bộ luật tố tụng dân sự.

(ii) Mặc dù Tòa án cấp sơ thẩm đã giao các văn bản tố tụng nêu trên cho ông Mùa A S2 - Trưởng Công an xã P để tống đạt cho các đương sự theo quy định tại Điều 172 Bộ luật tố tụng dân sự nhưng hồ sơ vụ án không thể hiện anh D có nhận được văn bản tố tụng của Tòa án hay không. Sau khi hoãn phiên tòa lần 1 (ngày 11/8/2017), ngày 05/9/2017, Tòa án cấp sơ thẩm đưa vụ án ra xét xử lần 2, ấn định thời gian mở phiên tòa vào hồi 08 giờ ngày 20/9/2017. Hồ sơ vụ án thể hiện Tòa án cấp sơ thẩm đã niêm yết quyết định đưa vụ án ra xét xử tại trụ sở Tòa án và trụ sở Ủy ban nhân dân xã P từ ngày 05/9/2017 đến ngày 19/9/2017 nên xác định thời gian niêm yết công khai là 14 ngày, vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự về thời hạn niêm yết công khai. Biên bản niêm yết (bút lục số 69) thể hiện đại diện chính quyền địa phương tham gia niêm yết là ông Mùa A D1 - Trưởng Công an xã P nhưng phần ký xác nhận của chính quyền địa phương thể hiện Trưởng Công an xã P là ông Mùa A S2 nên ý kiến của anh D về việc biên bản niêm yết ghi sai tên người tham gia niêm yết là có cơ sở. Mặt khác, anh D là Chỉ huy phó Ban Chỉ huy quân sự xã P, hiện đang cư trú ổn định tại bản N, xã P nên không thuộc trường hợp phải niêm yết công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự. Hồ sơ vụ án không có biên bản hòa giải, vụ án không thuộc trường hợp không được hòa giải theo quy định tại Điều 206 Bộ luật tố tụng dân sự; không có tài liệu, chứng cứ thể hiện vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự; không có biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự là vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, tại cấp phúc thẩm không khắc phục, bổ sung được.

(iii) Ngoài ra, bản án sơ thẩm số 16/2014/HNGĐ-ST ngày 29/9/2014 của Tòa án nhân dân huyện T và bản án phúc thẩm số 03/2014/HNGĐ-PT ngày 01/12/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La về việc xin ly hôn xác định chị S và anh D có 3 con chung là: Cháu Và A P sinh ngày 01/01/2000, Và A X sinh ngày 25/5/2002, Và Trường G sinh ngày 03/4/2004. Theo đơn khởi kiện ngày 30/4/2017 của chị S và các tài liệu, chứng cứ kèm theo gồm: Bản sao Sổ hộ khẩu gia đình chị Phá Thị S cấp ngày 04/4/2016, bản sao Giấy khai sinh của Và A P cấp lại ngày 24/4/2017, bản sao Giấy khai sinh của Và A S1 và Và A G đăng ký quá hạn ngày 29/8/2016 xác định chị S và anh D có 3 con chung là: Cháu Và A P sinh ngày 02/01/2001, cháu Và A S1 sinh ngày 15/8/2002 và cháu Và A G sinh ngày 08/7/2004. Xét tên và ngày, tháng, năm sinh của các cháu là căn cứ quan trọng để giải quyết tranh chấp về cấp dưỡng và xác định thời gian cấp dưỡng nuôi con, cấp sơ thẩm không xác minh, làm rõ việc thay đổi tên và ngày, tháng, năm sinh của các cháu so với bản án giải quyết việc ly hôn năm 2014, không làm rõ cháu Và A X và Và A S1, Và Trường G và Và A G có phải là cùng một người hay không là thiếu sót, cần được khắc phục, bổ sung.

2. Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 18/2024/HNGĐ-PT ngày 09/8/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang về việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung

Nội dung sửa án 

Trong đơn kháng cáo, bà Lê Thị Ý N kháng cáo yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con chung là 3.000.000 đồng/tháng cho đến khi cháu Nguyễn Lê Quỳnh A đủ 18 tuổi. Tuy nhiên tại phiên toà phúc thẩm, bà N chỉ yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con chung 1.200.000 đồng/tháng cho đến khi con thành niên và có khả năng lao động. Khi Nhà nước điều chỉnh tăng lương thì phải cấp dưỡng bằng 2 mức lương theo từng thời điểm thi hành án.

Xét, Bà Lê Thị Ý N kháng cáo nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bà N cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình. Tuy nhiên, theo quy định pháp luật thì mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng và mức cấp dưỡng không thấp hơn một nửa tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người cấp dưỡng đang cư trú cho mỗi tháng đối với người con.

Bà N yêu cầu cấp dưỡng 1.200.000 đồng/tháng tại thời điểm xét xử phúc thẩm là phù hợp quy định của pháp luật.

3. Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 42/2019/HNGĐ-PT ngày 24/10/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau về việc tranh chấp cấp dưỡng nuôi con

Nội dung sửa án 

Xét thu nhập của anh Đ1, có thu nhập từ lương mỗi tháng khoảng 11.000.000 đồng, nhưng phải chi phí nhiều khoản như đại diện bị đơn trình bày tại phiên tòa.

Về phía hai cháu Thảo V và Nhất D hiện các cháu đang học Trung học cơ sở thì cũng cần phải có những chi phí cho nhu cầu thiết yếu như ăn uống, tiền học …Tuy nhiên, tại thời điểm tháng 01/2018 khi Tòa án giải quyết ly hôn, về nuôi con chung thì anh Đ1 cũng có nguyện vọng nuôi con, chị Đ yêu cầu trực tiếp nuôi hai con và không yêu cầu cấp dưỡng. Thời gian chưa tròn 01 năm chị Đ lại gửi đơn khởi kiện yêu cầu anh Đ1 cấp dưỡng với lý do hoàn cảnh gặp nhiều khó khăn, thu nhập không ổn định... nhưng thực tế từ khi Tòa án huyện thụ lý cho đến nay chị cũng không trao đổi hoặc đặt ra yêu cầu với anh Đ1 để anh Đ1 trực tiếp nuôi con, hiện tại anh Đ1 vẫn bảo lưu ý kiến là đồng ý nuôi cả hai hoặc một người con. Hai đương sự có hai người con nên chị Đ cũng phải có trách nhiệm nuôi con. Tại phiên tòa phúc thẩm, chị Đ xác nhận ngoài thu nhập từ lương thì anh Đ1 không có tài sản khác, đối với chị Đ hiện chung sống cùng cha mẹ có nhà ở ổn định, chị Đ còn đứng tên một phần đất rừng diện tích 06ha, trong khi anh Đ1 phải ở nhờ tại nơi làm việc, anh trả nợ vay Ngân hàng, đi học dài hạn, chi phí ăn uống, sinh hoạt cá nhân… cho nên anh Đ1 tự nguyện cấp dưỡng mỗi cháu một tháng 1.000.000 đồng là phù hợp, có căn cứ (vì tiền anh Đ1 cấp dưỡng cho mỗi cháu cao hơn ½ mức lương cơ sở). Vì vậy, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Đ1, buộc cấp dưỡng nuôi con cho mỗi cháu một tháng bằng 1.000.000 đồng.

4. Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 10/2018/HNGĐ-PT ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên về việc tranh chấp cấp dưỡng nuôi con

Nội dung sửa án 

Căn cứ theo khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”; Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên…”. Như vậy, anh H không trực tiếp nuôi cháu M, nên phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo yêu cầu của chị Đ là có căn cứ chấp nhận.

Về mức cấp dưỡng, tại khoản 1 Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế củangười có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”.

Hiện nay anh H đang công tác tại Công an huyện M1 với mức lương hiện hưởng là 7.106.903 đồng/tháng (công văn số 550/CV-CAH, ngày 12/11/2018 của công an huyện M1).

Còn đối với chị Cà Thị Đ hiện tại đang công tác tại trường Mầm Non xã L, huyện B với mức lương hiện hưởng là 3.936.855đ/tháng (do chị Đ cung cấp bảng lương cho Tòa án tỉnh Điện Biên vào ngày 08/11/2018).

Theo quy định tại Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình thì “Cha, mẹ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên…”. Vì vậy, nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu Mẫn là nghĩa vụ chung của anh H và chị Đ.

Tại phiên tòa phúc thẩm anh H khai anh chỉ đồng ý với mức cấp dưỡng cho cháu M 1.200.000đ/1 tháng theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Bởi vì, anh còn phải trả Ngân hàng Agibank chi nhánh huyện M1 là 4.500.000đ/tháng do vay 200.000.000đ để phục vụ chung cho gia đình. Song, chị Đ không thừa nhận số tiền vay đó là vay phục vụ chung cho gia đình, hơn nữa anh H cũng không chứng minh được số tiền vay đó là vay để phục vụ chung cho gia đình. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào hệ số lương của anh H hiện tại là 4,6 và còn phải trả ngân hàng cả gốc và lãi hàng tháng hơn 4.000.000đ/tháng là không có căn cứ. Bởi vì, số tiền vay 200.000.000đ của anh H là vay riêng của anh H, không thể lấy nghĩa vụ riêng của anh H để xác định trách nhiệm mức cấp dưỡng nuôi con chung của anh H và chị Đ.

5. Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 62/2024/HNGĐ-PT ngày 22/5/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp về cấp dưỡng

Nội dung sửa án 

(i) Mức cấp dưỡng nuôi con mà ông Q phải thực hiện đã được các bên thương lượng thỏa thuận và được Tòa án công nhận từ năm 2018 theo Quyết định số 534, theo đó việc cấp dưỡng bắt đầu thực hiện từ ngày 01/12/2018. Tuy nhiên khoảng tháng 3/2019, ông Q khởi kiện yêu cầu giảm mức cấp dưỡng nuôi con, sau khi được động viên đã tự nguyện rút đơn khởi kiện. Sau một thời gian ông Q lại tiếp tục khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn, theo đó ông Q yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con. Sau khi được Tòa án hòa giải, ông Q cũng đã rút lại đơn khởi kiện nêu trên. Như vậy, chỉ sau 03 tháng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo Quyết định số 534, nguyên đơn đã hai lần khởi kiện ra Tòa án, lần 1 là đề nghị giảm mức cấp dưỡng nuôi con, lần 2 là đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con. Điều này thể hiện nguyên đơn không đủ khả năng cấp dưỡng với số tiền 10.000.000 đồng/tháng chỉ sau một thời gian ngắn thực hiện.

(ii) Trong các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, thể hiện ông Q còn thiếu tiền cấp dưỡng nuôi con qua nhiều tháng, dẫn đến việc Chi cục Thi hành án dân sự Quận 11 phải ra Quyết định Thi hành án theo đơn yêu cầu số 723/QĐ- CCTHADS ngày 23/5/2022, buộc ông Q thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng từ tháng 10/2021 đến tháng 9/2022. Đồng thời, thực tế đến nay ông Q vẫn còn chưa thực hiện cấp dưỡng nhiều tháng.

(iii) Theo bản “Thông tin tín dụng khách hàng vay cá nhân” của Trung tâm T1 thể hiện ông Q đang nợ ngân hàng, xác nhận ông Lê Bá Quán Q đến ngày 20/3/2024 có tổng nợ dư: 155 triệu đồng và 0 USD, nợ thẻ tín dụng: 82 triệu đồng tại Ngân hàng TNHH MTV U; đến ngày 29/02/2024 nợ thẻ ngân hàng: 68 triệu đồng tại Ngân hàng TNHH MTV H1 - Chi nhánh H2.

Từ những thông tin trên thể hiện tình trạng tài chính của ông Q hiện nay khó khăn là có thật.

(iv) Theo Quyết định số 534, nguyên đơn và bị đơn đã thỏa thuận mức cấp dưỡng nuôi con là 10.000.000 đồng/tháng. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Q đề nghị giảm mức cấp dưỡng xuống còn 8.000.000 đồng/tháng. Xét thấy, căn cứ vào hoàn cảnh, khả năng và thu nhập thực tế hiện nay của nguyên đơn, với mức cấp dưỡng 8.000.000 đồng/tháng mà ông Q đề nghị, chiếm vừa hơn 1/3 thu nhập của ông Q là phù hợp

6. Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 03/2023/HNGĐ-PT ngày 24/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình về việc yêu cầu thay đổi cấp dưỡng nuôi con

Nội dung sửa án 

Xét thấy chị Lê Thị H là công chức Nhà nước, là người làm công ăn lương, có thu nhập ổn định, thực tế thu nhập trung bình 01 tháng là 12.093.298 đồng, ngoài việc chi phí thông thường cần thiết phục vụ nhu cầu cuộc sống cho bản thân và các chi phụ phí khác, chị H còn phải nuôi dưỡng con chung là cháu Trịnh Trọng Đạt - hiện đang học đại học, chưa có công việc, thu nhập để tự lo cho bản thân. Mặt khác, cháu N đang sống cùng bố là anh Trịnh Xuân B tại thị trấn Mãn Đức, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình (thuộc khu vực I – Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi), mức lương tối thiểu vùng tại huyện Tân Lạc hiện nay (theo Nghị định 38/2022/NĐ-CP ngày 12/6/2022) là 3.250.000 đồng/tháng. Do vậy, việc anh B yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi cháu N với mức 5.000.000 đồng/ tháng là không phù hợp, do vậy việc Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào thu nhập thực tế của người cấp dưỡng, nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, tình hình kinh tế - xã hội tại địa phương nơi cháu N sinh sống để buộc chị Lê Thị H phải cấp dưỡng cho cháu N mỗi tháng 2.500.000 đồng đến khi cháu N trưởng thành, đủ 18 tuổi là có căn cứ. Tuy nhiên tại thời điểm xét xử phúc thẩm, Chính phủ có chính sách tiền lương mới, quy định về mức lương tối thiểu của người làm công và hưởng lương của Ngân sách Nhà nước, do vậy cũng cần đảm bảo nhu cầu thiết yếu của người cấp dưỡng, cũng như quyền lợi cho con chung chưa thành niên, đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt và các phụ phí khác. Do đó, có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của anh Trịnh Xuân B.

7. Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 08/2023/HNGĐ-PT ngày 09/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa về việc tranh chấp ly hôn

Nội dung sửa án 

Hiện tại, ông B và bà T đều làm nghề kinh doanh của hàng thời trang quần áo. Tại cấp sơ thẩm, cả hai đều xác nhận chi phí nuôi 3 con chung từ 8 đến 12 triệu đồng. Mặc dù, ông B cho rằng hiện hoàn cảnh ông khó khăn, ông phải trả Ngân hàng nhưng các khoản vay Ngân hàng của ông có mục đích mua nhà và mua xe ô tô, kinh doanh và đều là các khoản vay phát sinh vào năm 2022.

Hơn nữa, trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng cũng như chi phí cho việc nuôi con là trách nhiệm chung của bà T và ông B. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà T thay đổi yêu cầu về mức cấp dưỡng, yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi cả ba con chung là 8.000.000đồng/tháng. Ông B đồng ý cấp dưỡng nuôi 3 con chung mỗi tháng 5.000.000đồng. Xét thấy với mức 5.000.000đồng/tháng mà ông B đưa ra cho cả ba con chung là quá thấp không đảm bảo cho các khoản chi phí chăm sóc, nuôi dưỡng, ăn uống, học hành… của các cháu. Do các con chung đang ở cùng bà T và căn cứ vào hoàn cảnh và thu nhập thực tế hiện nay của các bên nên buộc ông B phải cấp dưỡng nuôi mỗi con chung là 2.500.000đồng cho đến khi các con chung lần lượt đủ 18 tuổi và có khó năng tự lao động là phù hợp.

8. Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 03/2018/HNGĐ-PT ngày 08/02/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con

Nội dung sửa án 

Khi ly hôn giữa anh L và chị L1 có thỏa thuận anh L có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi cháu M 2.000.000đ/tháng đã cấp dưỡng được một thời gian. Tuy nhiên, anh L cho rằng hiện nay anh gặp khó khăn về kinh tế có nhiều khoản nợ phải trả do đó anh yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng từ 2.000.000đ/tháng xuống còn 1.300.000đ/tháng. Hội đồng xét xử xét thấy, yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng của anh L là có cơ sở chấp nhận. Bởi lẽ, tại khoản 1 Điều 116 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về mức cấp dưỡng “Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.” Do đó, anh L và chị L1 không tự thỏa thuận được mức cấp dưỡng nuôi con nên mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật không dưới ½ của mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Tại khoản 2 Điều 3 của Nghị định số 47/2017/NĐ-CP, ngày 24 tháng 04 năm 2017 quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang quy định “Từ ngày 01 tháng 7 năm 2017, mức lương cơ sở là 1.300.000 đồng/tháng”, nhưng tại phiên tòa anh L đồng ý cấp dưỡng 1.300.000 đồng/ tháng, xét thấy đây là sự tự nguyện của anh L và không trái quy định pháp luật. Nên cấp phúc thẩm có căn cứ chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của anh L về việc thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con từ 2.000.000đồng/tháng xuống còn 1.300.000đồng/tháng.

9. Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 02/2022/HNGĐ-PT ngày 23/02/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình về việc tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con

Nội dung sửa án 

(i) Do đã có quyết định của Tòa án về việc xác định ông Đ là bố đẻ cháu P nhưng ông Đ chưa thực hiện nghĩa vụ về nuôi dưỡng, cũng như cấp dưỡng nuôi cháu P. Hiện nay, cháu P chưa đủ 18 tuổi – là người chưa thành niên, đang sinh sống tại căn nhà của mẹ là chị Cao Thị C, chị C đã chết năm 2019. Theo quy định tại Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình thì cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên. Trường hợp nếu cháu P còn mẹ thì ông Đ có trách nhiệm đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con để cùng với chị C nuôi dưỡng cháu. Nhưng hiện nay, cháu không còn mẹ nên trách nhiệm nuôi dưỡng chính là của ông Đồng.

(ii) Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và sự thừa nhận của các đương sự, thấy mức thu nhập của ông Lê Đại Đ được chứng minh qua sổ lương hưu là 3.152.000 đồng, ông Đồng đồng ý cấp dưỡng số tiền 1.000.000 đồng cho cháu Phúc và trình bày 1.000.000 đồng nuôi 01 người con đang bị tâm thần phần liệt đặc biệt nặng (theo ông Đồng trình bày tại phiên tòa phúc thẩm, thì người con đã chết cách đây khoảng 02 tháng, phải vay mượn để lo tang lễ).

Tuy nhiên, hoàn cảnh của cháu Cao Hồng P khó khăn, đang là học sinh, mẹ mất, không có người trực tiếp chăm sóc, chỉ nhờ bà ngoại là bà Đinh Thị S hỗ trợ, nếu bà C còn sống thì mức cấp dưỡng 1.000.000 đồng/tháng theo án sơ thẩm đã tuyên là phù hợp; nhưng hiện tại với số tiền 1.000.000 đồng/tháng thì sẽ rất khó khăn cho cháu trong việc nhu cầu thiết yếu trong sinh hoạt cũng như học tập. Vềnghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng và chăm sóc không phải của bà Đinh Thị S đóng góp cấp dưỡng mà phải là trách nhiệm của ông Lê Đại Đ. Do đó Hội đồng xét xử xem xét lại mức cấp dưỡng để đảm bảo sự phát triển cho cháu P – là người chưa thành niên.

Tại giai đoạn phúc thẩm, phía nguyên đơn có cung cấp các tài sản là đất rừng sản xuất của ông Lê Đại Đ, có xác nhận của chính quyền địa phương, ông Đ hiện đang đứng tên thửa số 504, diện tích 51.353m2, thửa đất số 525, diện tích 19.136m2, thửa đất số 109 diện tích 668m2 tại xã T, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Mặc dù ông Đ cho rằng đã di chúc tặng cho lại cho các con của ông nhưng theo quy định thì di chúc chưa có hiệu lực pháp luật, ông Đ chưa làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho ai nên xác định đây là tài sản của ông Lê Đại Đ, như vậy, đây là chứng cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét về tài sản và thu nhập của ông Đ.

Hiện nay, theo ông Đ trình bày thì anh Lê Hải T (là con của ông Đ bị tâm thần phân liệt) đã chết cách đây 02 tháng, vì vậy ông Đ không còn cấp dưỡng, nuôi dưỡng cho anh T.

Từ những phân tích trên, cần áp dụng Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình, xác định khả năng thực tế của người cấp dưỡng là ông Lê Đại Đ và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng là cháu Cao Hồng P, Hội đồng xét xử quyết định sửa án sơ thẩm để tăng thêm mức cấp dưỡng cho cháu P là phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Nghĩ nên buộc ông Đ cấp dưỡng 2.000.000 đồng/ tháng cho cháu P kể từ tháng 02/2021 đến khi cháu tròn 18 tuổi là phù hợp. Xét điều kiện của ông Đ thì cần buộc cấp dưỡng hằng tháng và trừ 2.000.000 đồng cháu P đã nhận từ ông Đ.

10. Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 14/2021/HNGĐ-PT ngày 30/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình về việc tranh chấp tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con

Nội dung sửa án 

Quá trình giải quyết vụ án chị Vũ Thị D không có yêu cầu phản tố đề nghị Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con chung; khi xem xét yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn Tòa án cấp sơ thẩm xác định không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện về cấp dưỡng nuôi con chung của anh Trần Xuân B đối với chị Vũ Thị D nhưng Tòa án cấp sơ lại tuyên buộc anh Trần Xuân B có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung là cháu Trần Vũ Phương T, sinh ngày 18/3/2012 và cháu Trần Thành Đ, sinh ngày 10/12/2014 mỗi tháng 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng)/1 cháu kể từ tháng 9 năm 2021 cho đến khi các cháu thành niên, đủ 18 tuổi là vượt quá thẩm quyền. Cần sửa một phần quyết định của Bản án sơ thẩm, không buộc anh Trần Xuân B có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung là cháu Trần Vũ Phương T, sinh ngày 18/3/2012 và cháu Trần Thành Đ, sinh ngày 10/12/2014 mỗi tháng 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng)/1 cháu kể từ tháng 9 năm 2021 cho đến khi các cháu thành niên, đủ 18 tuổi vì Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 79/2016/QĐST-HNGĐ ngày 14/7/2016 của Tòa án nhân dân thành phố N đang có hiệu lực thi hành.

Góp ý