1. Giải thích từ ngữ
Vi phạm các quy định về quản lý rừng được hiểu là hành vi vi phạm các quy định pháp luật về việc quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng rừng và lâm sản.
2. Tội danh
“Điều 233. Tội vi phạm quy định về quản lý rừng
1. Người nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng trái pháp luật từ 20.000 mét vuông (m2) đến dưới 25.000 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 15.000 mét vuông (m2) đến dưới 20.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 15.000 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng;
b) Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 12.500 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 7.500 mét vuông (m2) đến dưới 10.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 7.500 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng;
c) Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 232 của Bộ luật này;
d) Giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng, cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật hoặc cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật dưới mức quy định tại điểm a, điểm b khoản này và các điểm từ điểm a đến điểm l khoản 1 Điều 232 của Bộ luật này nhưng đã bị xử lý kỷ luật về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng trái pháp luật từ 25.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 20.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 15.000 mét vuông (m2) đến dưới 25.000 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng;
d) Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật từ 12.500 mét vuông (m2) đến dưới 17.000 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 15.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 7.500 mét vuông (m2) đến dưới 12.000 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng;
đ) Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm l khoản 2 Điều 232 của Bộ luật này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng trái pháp luật 40.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng sản xuất; 30.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng phòng hộ hoặc 25.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng đặc dụng;
b) Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật 17.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng sản xuất; 15.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng phòng hộ hoặc 12.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng đặc dụng;
c) Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 232 của Bộ luật này.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
3. Cấu thành tội phạm
3.1. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội này là quan hệ xã hội liên quan đến việc quản lý, bảo vệ và khai thác rừng. Cụ thể:
- Tài nguyên rừng: Vi phạm quy định về quản lý rừng ảnh hưởng trực tiếp đến tài nguyên rừng, làm giảm giá trị và diện tích rừng, gây hại cho hệ sinh thái rừng.
- Trật tự quản lý rừng: Vi phạm cũng ảnh hưởng đến việc quản lý, bảo vệ rừng, làm suy yếu khả năng kiểm soát và bảo vệ tài nguyên rừng của các cơ quan chức năng và gây xáo trộn trật tự xã hội trong quản lý tài nguyên thiên nhiên.
3.2. Mặt khách quan của tội phạm
Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội vi phạm quy định về quản lý rừng dưới một trong các hình thức sau:
- Giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng trái pháp luật từ 20.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng sản xuất; từ 15.000 mét vuông (m2) trở lên với rừng phòng hộ hoặc từ 10.000 mét vuông (m2) trở đối với rừng đặc dụng;
- Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật từ 10.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng sản xuất; từ 7.500 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng phòng hộ hoặc từ 5.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng đặc dụng;
- Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự;
- Giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng, cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật hoặc cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật dưới mức quy định tại điểm a, điểm b khoản này và các điểm từ điểm a đến điểm l khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự nhưng đã bị xử lý kỷ luật về một trong các hành vi quy định tại Điều 233 Bộ luật Hình sự mà còn vi phạm.
Hậu quả của tội vi phạm các quy định về quản lý rừng có thể rất nghiêm trọng, ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội và môi trường. Dưới đây là phân tích chi tiết các hậu quả chính:
- Suy giảm tài nguyên rừng:
+ Mất diện tích rừng: Các hành vi khai thác trái phép, phá rừng, và đốt rừng dẫn đến sự giảm sút diện tích rừng. Rừng bị chặt phá hoặc đốt sẽ không còn khả năng cung cấp các sản phẩm lâm sản và dịch vụ sinh thái như trước đây.
+ Giảm đa dạng sinh học: Sự suy giảm diện tích rừng đồng nghĩa với việc mất môi trường sống của nhiều loài thực vật và động vật. Điều này dẫn đến sự giảm số lượng các loài động vật hoang dã, nhiều loài có nguy cơ tuyệt chủng, làm giảm sự đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng.
- Hủy hoại môi trường:
+ Xói mòn đất và sạt lở: Khi rừng bị phá hủy, lớp đất phủ trên bề mặt bị mất đi, dẫn đến tình trạng xói mòn đất và sạt lở. Đây là vấn đề nghiêm trọng ảnh hưởng đến chất lượng đất nông nghiệp và gây ra các vấn đề môi trường khác.
+ Tăng nguy cơ lũ lụt: Rừng có vai trò giữ nước và điều hòa lưu lượng nước mưa. Khi rừng bị phá hủy, khả năng giữ nước của đất giảm, làm gia tăng nguy cơ lũ lụt trong các khu vực xung quanh.
+ Biến đổi khí hậu: Rừng đóng vai trò quan trọng trong việc hấp thụ CO₂ và điều hòa khí hậu. Việc mất rừng làm giảm khả năng hấp thụ khí CO₂, góp phần vào hiện tượng biến đổi khí hậu và làm trầm trọng thêm tình trạng ấm lên toàn cầu.
- Ảnh hưởng đến cộng đồng:Nhiều cộng đồng, đặc biệt là các cộng đồng dân tộc thiểu số sống dựa vào rừng, có thể mất nguồn sinh kế khi rừng bị khai thác hoặc phá hủy. Họ có thể mất đi nguồn thực phẩm, nguyên liệu xây dựng và các sản phẩm phụ trợ từ rừng.Mất sinh kế từ rừng dẫn đến tình trạng đói nghèo gia tăng.
- Tổn thất kinh tế:
+ Giảm thu nhập từ quản lý rừng: Vi phạm các quy định về quản lý rừng có thể làm giảm nguồn thu từ các hoạt động khai thác hợp pháp và du lịch sinh thái, do việc mất tài nguyên rừng làm giảm giá trị kinh tế của chúng.
+ Chi phí khắc phục thiệt hại: Chi phí để khắc phục các thiệt hại môi trường do phá hủy rừng có thể rất lớn, bao gồm chi phí cho việc phục hồi rừng, khắc phục lũ lụt và sửa chữa thiệt hại liên quan đến đất đai và cơ sở hạ tầng.
- Mất lòng tin vào pháp luật và quản lý nhà nước:
+ Giảm niềm tin vào chính quyền: Các hành vi vi phạm quy định về quản lý rừng, nếu không được xử lý nghiêm khắc, có thể làm giảm lòng tin của người dân vào hiệu quả của chính quyền và hệ thống pháp luật trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
+ Tạo môi trường thuận lợi cho tham nhũng: Vi phạm quy định về quản lý rừng có thể tạo ra cơ hội cho tham nhũng và lạm dụng quyền lực, mất đi sự công bằng trong việc quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng.
3.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội với lỗi cố ý.
3.4. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên theo Điều 12 Bộ luật Hình sự và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo Điều 21 Bộ luật Hình sự.
Pháp nhân thương mại có đủ điều kiện tại Điều 75 Bộ luật Hình sự có thể trở thành chủ thể của tội phạm này.
Trân trọng./.