
Thời hạn đầu tư và chuyển nhượng vốn đầu tư từ ngân sách địa phương vào hoạt động đầu tư khởi nghiệp sáng tạo được thực hiện như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Tôi là một người dân sinh sống tại địa phương, gần đây có nghe thông tin rằng tỉnh đang sử dụng nguồn vốn ngân sách địa phương để đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Tôi rất quan tâm vì đang có dự án khởi nghiệp nhỏ trong lĩnh vực sản xuất nông sản sạch. Tuy nhiên, tôi chưa rõ việc đầu tư này được thực hiện trong bao lâu, có thời hạn cụ thể không?Và sau một thời gian thì việc chuyển nhượng phần vốn đầu tư đó sẽ được tiến hành ra sao. Mong luật sư tư vấn giúp tôi, xin cảm ơn.
MỤC LỤC
Trả lời:
1. Thời hạn đầu tư từ ngân sách địa phương vào hoạt động đầu tư khởi nghiệp sáng tạo được thực hiện như thế nào?
Trong quá trình thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, việc sử dụng ngân sách địa phương để đầu tư vào doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo là một trong những công cụ quan trọng nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho các ý tưởng đổi mới có tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, để đảm bảo quản lý chặt chẽ và sử dụng hiệu quả nguồn vốn công, Nhà nước đã đặt ra giới hạn cụ thể về thời hạn đầu tư. Căn cứ tại Điều 24 Nghị định số 38/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết về đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo (sau đây gọi tắt là “Nghị định số 38/2018/NĐ-CP”) đã xác định rõ thời gian và mốc tính thời hạn đầu tư, giúp bảo đảm sự minh bạch và kiểm soát trong toàn bộ quá trình triển khai nguồn vốn từ ngân sách địa phương. Cụ thể như sau:
“Điều 24. Thời hạn đầu tư
Thời hạn đầu tư từ ngân sách địa phương tối đa là 05 năm kể từ thời điểm đầu tư. Thời điểm đầu tư là ngày ký kết hợp đồng đầu tư giữa tổ chức tài chính nhà nước của địa phương với doanh nghiệp nhận đầu tư.”
Theo đó, thời hạn đầu tư từ ngân sách địa phương tối đa là 05 năm kể từ thời điểm đầu tư. Giới hạn thời gian 05 năm thể hiện sự thận trọng của Nhà nước trong việc quản lý nguồn vốn công, đồng thời phù hợp với chu kỳ phát triển trung hạn của một doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo. Khoảng thời gian này được xem là đủ để doanh nghiệp hình thành, hoàn thiện sản phẩm, mở rộng thị trường và chứng minh hiệu quả hoạt động. Việc giới hạn thời hạn đầu tư giúp tránh tình trạng kéo dài vốn nhà nước trong các dự án không hiệu quả, đảm bảo nguồn lực được luân chuyển hợp lý, phục vụ các hoạt động đầu tư mới trong tương lai.
Bên cạnh đó, thời điểm đầu tư được xác định là ngày ký kết hợp đồng đầu tư giữa tổ chức tài chính nhà nước của địa phương với doanh nghiệp nhận đầu tư. Việc này giúp tạo cơ sở pháp lý rõ ràng để tính thời hạn đầu tư nêu trên. Đồng thời, giúp tránh các tranh chấp, hiểu lầm hoặc chênh lệch thời gian trong quá trình thực hiện. Điều này đảm bảo tính thống nhất và minh bạch trong việc quản lý, giám sát và quyết toán nguồn vốn đầu tư từ ngân sách địa phương.
Như vậy, điều luật này mang tính kiểm soát và định hướng quan trọng của Nhà nước trong việc sử dụng nguồn ngân sách địa phương cho hoạt động đầu tư khởi nghiệp sáng tạo. Quy định không chỉ bảo đảm hiệu quả đầu tư và tính kỷ luật tài chính, mà còn giúp thúc đẩy sự chủ động, tự cường của các doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo trong việc phát triển bền vững sau khi nhận vốn hỗ trợ. Qua đó, chính sách đầu tư công trong lĩnh vực khởi nghiệp được triển khai một cách minh bạch, có trọng tâm và mang lại giá trị thiết thực cho nền kinh tế địa phương và quốc gia.
2. Chuyển nhượng vốn đầu tư từ ngân sách địa phương vào hoạt động đầu tư khởi nghiệp sáng tạo được thực hiện như thế nào?
Trong hoạt động đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, việc sử dụng nguồn vốn ngân sách địa phương cần được thực hiện hiệu quả và có lộ trình thoái vốn rõ ràng để tái tạo nguồn lực cho các chương trình hỗ trợ khác. Do đó, Chính phủ đã ban hành quy định về chuyển nhượng vốn đầu tư từ ngân sách địa phương trong Điều 25 Nghị định số 38/2018/NĐ-CP, nhằm đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả và phù hợp với nguyên tắc quản lý vốn nhà nước. Cụ thể:
“Điều 25. Chuyển nhượng vốn đầu tư
1. Trong thời hạn 05 năm kể từ thời điểm đầu tư, tổ chức tài chính nhà nước của địa phương tiến hành chuyển nhượng cổ Phần, Phần vốn góp tại doanh nghiệp nhận đầu tư cho nhà đầu tư tư nhân. Ưu tiên chuyển nhượng vốn cho quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo cùng đầu tư, cổ đông hiện hữu của doanh nghiệp nhận đầu tư.
2. Việc chuyển nhượng Khoản đầu tư thực hiện theo quy định tại Điều 31 Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp.
3. Toàn bộ giá trị thu được từ chuyển nhượng vốn, sau khi trừ các chi phí chuyển nhượng, nghĩa vụ thuế (nếu có), phải nộp về ngân sách nhà nước.”
Theo đó, trong thời hạn 05 năm kể từ thời điểm đầu tư, tổ chức tài chính nhà nước của địa phương tiến hành chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp tại doanh nghiệp nhận đầu tư cho nhà đầu tư tư nhân. Trong đó, ưu tiên chuyển nhượng vốn cho quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo cùng đầu tư, cổ đông hiện hữu của doanh nghiệp nhận đầu tư. Quy định này thể hiện định hướng của Nhà nước trong việc chỉ đóng vai trò hỗ trợ ban đầu cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, không nắm giữ lâu dài phần vốn đầu tư. Việc ưu tiên cho quỹ cùng đầu tư hoặc cổ đông hiện hữu giúp bảo đảm tính ổn định trong cơ cấu sở hữu, đồng thời khuyến khích khu vực tư nhân tiếp tục đồng hành với doanh nghiệp sau giai đoạn được Nhà nước hỗ trợ. Cách làm này vừa tạo điều kiện cho Nhà nước thu hồi vốn, vừa giúp doanh nghiệp phát triển dựa trên năng lực thị trường thực chất.
Đối với việc chuyển nhượng khoản đầu tư được thực hiện theo Điều 31 Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp 2014. Tuy nhiên, khoản 1, 3 Điều 58 Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp 2025 có ghi nhận:
“Điều 58. Hiệu lực thi hành
1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 8 năm 2025.
...
3. Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp số 69/2014/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 35/2018/QH14 (sau đây gọi là Luật số 69/2014/QH13) hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, trừ các trường hợp quy định tại Điều 59 của Luật này.”
Như vậy, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp 2014 hết hiệu lực kể từ ngày 01/8/2025, những nội dung về việc chuyển nhượng khoản đầu tư sẽ được thực hiện theo nội dung tương ứng tại Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp 2025.
Ngoài ra, điều khoản trên ghi nhận rằng toàn bộ giá trị thu được từ chuyển nhượng vốn, sau khi trừ các chi phí chuyển nhượng, nghĩa vụ thuế thì phải nộp về ngân sách nhà nước. Đây là nguyên tắc quan trọng bảo đảm nguồn vốn công được quản lý thống nhất và sử dụng đúng mục đích. Việc nộp lại toàn bộ giá trị thu được giúp tái bổ sung ngân sách, tạo nguồn lực tiếp tục cho các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo trong tương lai. Đồng thời, thể hiện trách nhiệm tài chính của tổ chức tài chính nhà nước trong việc thu hồi và hạch toán vốn đầu tư.
Như vậy, điều luật trên đóng vai trò là cơ chế quan trọng nhằm đảm bảo nguồn vốn nhà nước được sử dụng hiệu quả, minh bạch và quay trở lại ngân sách sau giai đoạn hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp. Quy định này không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý tài chính công, mà còn thúc đẩy sự tham gia mạnh mẽ của tư nhân trong phát triển hoạt động khởi nghiệp sáng tạo. Qua đó, Nhà nước thực hiện đúng vai trò “bà đỡ” ban đầu, tạo đà cho doanh nghiệp tự chủ, sáng tạo và phát triển bền vững trong môi trường kinh tế năng động hiện nay.
Trân trọng./.












