Cơ cấu lại, giải thể và phá sản Quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện như thế nào?

Cơ cấu lại, giải thể và phá sản Quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện như thế nào?

Cơ cấu lại, giải thể và phá sản Quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện như thế nào?

Luật sư cho tôi hỏi: Tôi là một người dân sinh sống tại địa phương, có theo dõi hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng vì nhiều doanh nghiệp nhỏ quanh tôi đang được Quỹ này hỗ trợ vay vốn. Gần đây tôi nghe nói có Quỹ bảo lãnh tín dụng hoạt động không hiệu quả, bị yêu cầu cơ cấu lại, thậm chí có thể phải giải thể hoặc phá sản. Tôi thắc mắc không biết trong thực tế, khi Quỹ bảo lãnh tín dụng gặp khó khăn tài chính hoặc hoạt động không còn phù hợp, thì việc cơ cấu lại, giải thể hay phá sản được tiến hành theo trình tự nào và ai có thẩm quyền xem xét, quyết định? Mong luật sư tư vấn giúp tôi, xin cảm ơn.

MỤC LỤC

1. Việc cơ cấu lại, giải thể, phá sản Quỹ bảo lãnh tín dụng được quy định như thế nào?

2. Pháp luật quy định như thế nào về Hội đồng, quy trình, quyết định giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng?

3. Sau khi có quyết định giải thể, trách nhiệm của Quỹ bảo lãnh tín dụng và Hội đồng giải thể được thực hiện ra sao?

 

Trả lời:

1. Việc cơ cấu lại, giải thể, phá sản Quỹ bảo lãnh tín dụng được quy định như thế nào?

Trong quá trình hoạt động, Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa không thể tránh khỏi những biến động về hiệu quả, cơ cấu tổ chức hoặc những khó khăn mang tính hệ thống. Vì vậy, để đảm bảo hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng luôn tuân thủ đúng quy định pháp luật, phát huy vai trò hỗ trợ doanh nghiệp và sử dụng hiệu quả nguồn lực Nhà nước, Chính phủ đã quy định rõ về việc cơ cấu lại, giải thể và phá sản Quỹ bảo lãnh tín dụng tại Điều 50, 57 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (sau đây gọi tắt là “Nghị định số 34/2018/NĐ-CP”) như sau:

Điều 50. Cơ cấu lại và giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng

Căn cứ kết quả đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định:

1. Cơ cấu lại bộ máy tổ chức quản trị, điều hành và các hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng có tổ chức và hoạt động chưa tuân thủ các quy định tại Nghị định này và pháp luật hiện hành, hoạt động chưa hiệu quả.

2. Giải thể các Quỹ bảo lãnh tín dụng đã được cơ cấu lại theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng hoạt động không hiệu quả, không đúng mục tiêu thành lập Quỹ, hoạt động không đúng quy định của pháp luật và các trường hợp buộc phải giải thể theo quy định tại Điều 51 Nghị định này.”

Điều 57. Phá sản Quỹ bảo lãnh tín dụng

Việc phá sản Quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện theo quy định của Luật phá sản và các văn bản hướng dẫn.”

Dẫn chiếu đến Điều 51 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP:

Điều 51. Các trường hợp phải giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng tại địa phương trong các trường hợp sau đây:

1. Quỹ bảo lãnh tín dụng không có đủ vốn điều lệ tối thiểu theo quy định tại khoản 4 Điều 64 và khoản 6 Điều 6 Nghị định này.

2. Tỷ lệ dư nợ cấp bảo lãnh tín dụng trên vốn điều lệ thực có của Quỹ bảo lãnh tín dụng tại thời điểm 31 tháng 12 hàng năm thấp hơn 10% trong 05 năm liên tiếp kể từ khi Nghị định này có hiệu lực thi hành.

3. Tỷ lệ nợ xấu của Quỹ bảo lãnh tín dụng cao hơn 50% vốn điều lệ thực có của Quỹ trong 03 năm liên tiếp.”

Trước hết, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ căn cứ vào kết quả đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng mà quyết định cơ cấu lại bộ máy tổ chức quản trị, điều hành và các hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng có tổ chức và hoạt động chưa tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành hay hoạt động chưa hiệu quả. Việc cơ cấu lại này có thể bao gồm thay đổi nhân sự lãnh đạo, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức hoặc điều chỉnh chiến lược hoạt động, giúp Quỹ bảo lãnh tín dụng vận hành linh hoạt, phù hợp hơn với tình hình thực tế và đúng với mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây là biện pháp mang tính phòng ngừa và khắc phục sớm, tạo cơ hội để Quỹ bảo lãnh tín dụng tự cải thiện trước khi buộc phải giải thể.

Nếu sau khi đã cơ cấu lại mà Quỹ bảo lãnh tín dụng vẫn hoạt động không hiệu quả, không đúng mục tiêu thành lập Quỹ, hoạt động không đúng quy định của pháp luật thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể căn cứ vào đánh giá hoạt động đó để ra quyết định giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng. Theo đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải thực hiện việc giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng tại địa phương trong các trường hợp sau đây:

- Quỹ bảo lãnh tín dụng không có đủ vốn điều lệ tối thiểu theo ghi nhận tại khoản 4 Điều 64 và khoản 6 Điều 6 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP;

- Tỷ lệ dư nợ cấp bảo lãnh tín dụng trên vốn điều lệ thực có của Quỹ bảo lãnh tín dụng tại thời điểm 31 tháng 12 hàng năm thấp hơn 10% trong 05 năm liên tiếp kể từ khi Nghị định số 34/2018/NĐ-CP có hiệu lực thi hành.

- Tỷ lệ nợ xấu của Quỹ bảo lãnh tín dụng cao hơn 50% vốn điều lệ thực có của Quỹ trong 03 năm liên tiếp.

Các trường hợp này thể hiện rõ ngưỡng cảnh báo rủi ro tài chính và quản trị, giúp chính quyền địa phương có cơ sở pháp lý để bảo đảm rằng nguồn lực Nhà nước không bị lãng phí và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng luôn minh bạch, bền vững.

Bên cạnh đó, nếu Quỹ bảo lãnh tín dụng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, không thể khắc phục hoặc tái cơ cấu, việc phá sản sẽ được thực hiện theo quy định của Luật Phá sản và các văn bản hướng dẫn. Quy định này nhằm đảm bảo Quỹ bảo lãnh tín dụng, dù là tổ chức tài chính đặc thù, vẫn phải tuân thủ đầy đủ nguyên tắc của nền kinh tế thị trường và chịu trách nhiệm trước pháp luật như các chủ thể khác.

Những quy định nêu trên thể hiện tính kỷ luật, minh bạch và trách nhiệm trong quản lý tài chính công. Việc cho phép cơ cấu lại trước khi giải thể hay phá sản không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp, ngân hàng, mà còn bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước. Đồng thời, cơ chế này cũng tạo động lực đổi mới và tự hoàn thiện cho các Quỹ bảo lãnh tín dụng, buộc họ phải thường xuyên đánh giá lại năng lực, chất lượng dịch vụ và khả năng đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các quy định này không chỉ đảm bảo Quỹ bảo lãnh tín dụng vận hành đúng mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, mà còn góp phần duy trì sự ổn định và lành mạnh của môi trường tài chính địa phương, thể hiện rõ vai trò quản lý chặt chẽ và định hướng phát triển bền vững của Nhà nước.

2. Pháp luật quy định như thế nào về Hội đồng, quy trình, quyết định giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng?

Để đảm bảo việc chấm dứt hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện một cách có trật tự, minh bạch và đúng quy định, Chính phủ đã quy định rõ về Hội đồng giải thể, quy trình và quyết định giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng tại các Điều 52, 53, 54 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP như sau:

Điều 52. Hội đồng giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng

1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập Hội đồng giải thể để tổ chức việc thực hiện giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng. Hội đồng giải thể có chức năng tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về phương án giải thể và tổ chức thực hiện giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng.

2. Hội đồng giải thể gồm đại diện các cơ quan sau:

a) Chủ tịch Hội đồng giải thể là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;

b) Lãnh đạo Sở: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư và Lao động - Thương binh và Xã hội;

c) Lãnh đạo Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại địa phương;

d) Chủ tịch, Kiểm soát viên của Quỹ bảo lãnh tín dụng;

đ) Đại diện của các cơ quan liên quan (nếu cần thiết) theo quyết định của địa phương.

Điều 53. Quy trình giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng

1. Trường hợp Quỹ bảo lãnh tín dụng phải giải thể theo quy định tại Nghị định này, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập Hội đồng giải thể theo quy định tại Điều 52 Nghị định này. Hội đồng giải thể có trách nhiệm xây dựng phương án giải thể, báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xin ý kiến Hội đồng nhân dân cùng cấp trước khi quyết định giải thể. Phương án giải thể bao gồm các nội dung sau:

a) Tổ chức kiểm toán độc lập để đánh giá thực trạng tài chính và xác định giá trị thực của vốn điều lệ, trừ trường hợp đã có báo cáo tài chính được kiểm toán độc lập trong vòng 6 tháng trước thời điểm quyết định giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng;

b) Phương án thanh lý tài sản, xử lý nguồn vốn điều lệ, các khoản bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đang thực hiện và thanh toán các khoản nợ của Quỹ bảo lãnh tín dụng;

c) Phương án xử lý các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lao động;

d) Nội dung chấm dứt toàn bộ quyền, lợi ích của Quỹ bảo lãnh tín dụng.

2. Sau khi phương án giải thể được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng theo các nội dung quy định tại Điều 54 Nghị định này.

3. Sau khi có quyết định giải thể:

a) Quỹ bảo lãnh tín dụng có trách nhiệm thực hiện các quy định tại Điều 55 Nghị định này.

b) Hội đồng giải thể có trách nhiệm thực hiện các quy định tại Điều 56 Nghị định này;

4. Hội đồng giải thể tự động chấm dứt hoạt động khi Quỹ bảo lãnh tín dụng đã hoàn tất các thủ tục giải thể theo quy định tại Nghị định này và các quy định của pháp luật có liên quan.

5. Thời gian giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng không quá 02 năm kể từ ngày quyết định giải thể có hiệu lực. Trường hợp cần thiết, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định gia hạn thời gian giải thể nhưng tối đa không quá 01 năm.

Điều 54. Quyết định giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng

1. Quyết định giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng phải có các nội dung chủ yếu như sau:

a) Tên, địa chỉ trụ sở chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng bị giải thể;

b) Lý do giải thể;

c) Thời hạn, thủ tục thanh lý hợp đồng và thanh toán các khoản nợ của Quỹ bảo lãnh tín dụng; thời hạn thanh toán nợ, thanh lý hợp đồng không được vượt quá 01 năm, kể từ ngày có quyết định giải thể;

d) Thu hồi trước hạn hoặc chuyển giao các khoản đã trả nợ thay cho một đơn vị chuyên môn tiếp tục theo dõi, thu nợ vốn Quỹ đã trả nợ thay;

đ) Phương án xử lý các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lao động.

2. Trong vòng 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định giải thể, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải báo cáo Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam biết và công bố rộng rãi việc giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương và trung ương.”

* Lưu ý 1: Sở Lao động – Thương binh và Xã hội hợp nhất với Sở Nội vụ thành Sở Nội vụ; Sở Tài chính với Sở Kế hoạch và Đầu tư được hợp nhất thành Sở Tài chính (căn cứ tiểu mục 5, 1 mục 1.2 Phần II Công văn số 24/CV-BCĐTKNQ18 ngày 18/12/2024 của Ban Chỉ đạo về tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW về việc định hướng, gợi ý một số nội dung về sắp xếp tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; mục 1.2, 1.1 Phần I Công văn số 05/CV-BCĐTKNQ18 ngày 12/01/2025 của Ban Chỉ đạo về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW về việc bổ sung, hoàn thiện phương án sắp xếp tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và khoản 1, 3 Điều 8 Nghị định số 150/2025/NĐ-CP ngày 12/6/2025 của Chính Phủ về việc quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Ủy ban nhân dân xã, phường, đặc khu thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương).

* Lưu ý 2: Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với Bộ Tài chính được hợp nhất thành Bộ Tài chính (căn cứ mục 2.3 Phần II Kết luận số 121-KL/TW ngày 24/01/2025 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và khoản 6 Điều 1 Nghị quyết số 176/2025/QH15 ngày 18/02/2025 của Quốc hội về cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khoá XV).

Thứ nhất, về Hội đồng giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định thành lập Hội đồng giải thể này để tổ chức việc thực hiện giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng. Hội đồng giải thể với chức năng là tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về phương án giải thể và tổ chức thực hiện giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng. Đây không chỉ là cơ quan hành chính mà còn là cầu nối giữa Nhà nước và Quỹ bảo lãnh tín dụng, giúp quá trình chấm dứt hoạt động diễn ra công bằng, đúng quy định, tránh thất thoát tài sản và bảo đảm quyền lợi của các bên liên quan như doanh nghiệp, ngân hàng và người lao động. Cụ thể, Hội đồng giải thể bao gồm đại diện các cơ quan sau:

- Chủ tịch Hội đồng giải thể là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;

- Lãnh đạo Sở Tài chính, Sở Nội vụ;

- Lãnh đạo Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại địa phương;

- Chủ tịch, Kiểm soát viên của Quỹ bảo lãnh tín dụng;

- Đại diện của các cơ quan liên quan (nếu cần thiết) theo quyết định của địa phương.

Cấu trúc này thể hiện sự phối hợp liên ngành nhằm đảm bảo quá trình giải thể được giám sát chặt chẽ, xử lý toàn diện về tài chính, nhân sự, tài sản và các nghĩa vụ pháp lý phát sinh.

Thứ hai, về quy trình giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng:

- Nếu Quỹ bảo lãnh tín dụng giải thể theo quy định, thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ thành lập Hội đồng giải thể như trên. Hội đồng giải thể có trách nhiệm xây dựng phương án giải thể, báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xin ý kiến Hội đồng nhân dân cùng cấp trước khi quyết định giải thể. Phương án giải thể phải đảm bảo các nội dung gồm:

+ Tổ chức kiểm toán độc lập để đánh giá thực trạng tài chính và xác định giá trị thực của vốn điều lệ, trừ trường hợp đã có báo cáo tài chính được kiểm toán độc lập trong vòng 06 tháng trước thời điểm quyết định giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng;

+ Phương án thanh lý tài sản, xử lý nguồn vốn điều lệ, các khoản bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đang thực hiện và thanh toán các khoản nợ của Quỹ bảo lãnh tín dụng;

+ Phương án xử lý các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lao động;

+ Nội dung chấm dứt toàn bộ quyền, lợi ích của Quỹ bảo lãnh tín dụng.

Phần này thể hiện tính thận trọng, minh bạch và có giám sát của Nhà nước trong việc chấm dứt hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Ngoài việc bảo đảm tính khách quan trong đánh giá tình hình tài chính và giá trị thực của vốn Nhà nước, còn thể hiện sự quan tâm đến quyền lợi của tổ chức, cá nhân có liên quan, đặc biệt là doanh nghiệp được bảo lãnh.

- Sau khi phương án giải thể được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận, thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng theo các nội dung tại Điều 55 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP sẽ được phân tích ngay sau đây. Sau khi có quyết định giải thể, Quỹ bảo lãnh tín dụng cũng như Hội đồng giải thể phải có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ của mình theo quy định pháp luật.

Sự ghi nhận này nhấn mạnh tính hợp pháp và trình tự chặt chẽ của việc ra quyết định giải thể. Việc yêu cầu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê duyệt trước khi ra quyết định thể hiện cơ chế giám sát dân chủ trong quản lý tài chính công. Đồng thời, quy định trách nhiệm cụ thể của cả Quỹ bảo lãnh tín dụng và Hội đồng giải thể giúp đảm bảo quá trình thực hiện được nghiêm túc, rõ trách nhiệm, tránh sai sót hoặc thất thoát tài sản Nhà nước. Điều này cũng cho thấy việc giải thể không đơn thuần là “đóng cửa” một tổ chức, mà là một quá trình pháp lý, tài chính được giám sát toàn diện.

- Hội đồng giải thể tự động chấm dứt hoạt động khi Quỹ bảo lãnh tín dụng đã hoàn tất các thủ tục giải thể theo luật định. Thời gian giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng không quá 02 năm kể từ ngày quyết định giải thể có hiệu lực. Trường hợp cần thiết, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định gia hạn thời gian giải thể nhưng tối đa không quá 01 năm.

Những nội dung trên về quy trình giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng thể hiện vai trò quản lý nhà nước nghiêm minh, minh bạch và có trách nhiệm đối với tài sản công, đồng thời góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp, người lao động và các bên liên quan trong quá trình chấm dứt hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng.

Thứ ba, về quyết định giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng, trong đó phải có các nội dung chủ yếu sau:

- Tên, địa chỉ trụ sở chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng bị giải thể;

- Lý do giải thể;

- Thời hạn, thủ tục thanh lý hợp đồng và thanh toán các khoản nợ của Quỹ bảo lãnh tín dụng; thời hạn thanh toán nợ, thanh lý hợp đồng không được vượt quá 01 năm, kể từ ngày có quyết định giải thể;

- Thu hồi trước hạn hoặc chuyển giao các khoản đã trả nợ thay cho một đơn vị chuyên môn tiếp tục theo dõi, thu nợ vốn Quỹ bảo lãnh tín dụng đã trả nợ thay;

- Phương án xử lý các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lao động.

Trong vòng 15 ngày kể từ ngày ra quyết định giải thể, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải báo cáo Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam biết và công bố rộng rãi việc giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương và trung ương. Quy định này nhằm bảo đảm quá trình giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện đúng pháp luật, công khai, minh bạch và có trách nhiệm. Không chỉ giúp cơ quan nhà nước kiểm soát được việc chấm dứt hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng mà còn bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp, người lao động và Nhà nước, đảm bảo trật tự, an toàn trong lĩnh vực tài chính, tín dụng địa phương.

3. Sau khi có quyết định giải thể, trách nhiệm của Quỹ bảo lãnh tín dụng và Hội đồng giải thể được thực hiện ra sao?

Sau khi có quyết định giải thể, trách nhiệm được chia thành hai nhóm chủ thể chính: Quỹ bảo lãnh tín dụng, chịu trách nhiệm chuẩn bị, bàn giao và chấm dứt các hoạt động và Hội đồng giải thể, cơ quan được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập để tổ chức thực hiện toàn bộ quá trình giải thể. Cụ thể tại Điều 55, 56 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP như sau:

Điều 55. Trách nhiệm của Quỹ bảo lãnh tín dụng sau khi có quyết định giải thể

1. Kể từ ngày quyết định giải thể có hiệu lực, Quỹ bảo lãnh tín dụng có trách nhiệm thực hiện triển khai các nhiệm vụ:

a) Chấm dứt hoạt động bảo lãnh tín dụng và các hoạt động có liên quan;

b) Khóa sổ kế toán; kiểm kê tài sản; đối chiếu công nợ phải thu, phải trả, lập báo cáo tài chính đến thời điểm quyết định giải thể có hiệu lực;

c) Lập danh sách các khoản tiền gửi tại các tổ chức tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng; nợ phải trả, danh sách khách hàng đang bảo lãnh tín dụng và số nợ gốc, lãi phải thu (chia ra nợ có khả năng thu hồi và nợ không có khả năng thu hồi); các khoản vốn huy động của Quỹ bảo lãnh tín dụng;

d) Gửi văn bản đề nghị cơ quan thuế xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế của Quỹ.

2. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi quyết định giải thể có hiệu lực, Quỹ bảo lãnh tín dụng phải bàn giao cho Hội đồng giải thể:

a) Báo cáo tài chính, sổ sách kế toán và các tài liệu liên quan đến việc giải thể của Quỹ; danh sách các khoản bảo lãnh tín dụng và trả nợ thay;

b) Toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu, quản lý, sử dụng hợp pháp của Quỹ bảo lãnh tín dụng (kể cả tài sản chưa thu hồi được).

Điều 56. Trách nhiệm của Hội đồng giải thể sau khi có quyết định giải thể

1. Sau khi có quyết định giải thể, Hội đồng giải thể có trách nhiệm:

a) Thu hồi con dấu của Quỹ bảo lãnh tín dụng để phục vụ việc giải thể;

b) Tổ chức giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng theo phương án được duyệt;

c) Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày kết thúc việc giải thể, Hội đồng giải thể báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về kết quả giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng.

2. Hội đồng giải thể được sử dụng con dấu của Quỹ bảo lãnh tín dụng để phục vụ công tác giải thể và yêu cầu các cơ quan nhà nước có liên quan hỗ trợ việc thu hồi tài sản.”

Về trách nhiệm của Quỹ bảo lãnh tín dụng sau khi có quyết định giải thể:

- Kể từ ngày quyết định giải thể có hiệu lực, Quỹ bảo lãnh tín dụng có trách nhiệm thực hiện triển khai các nhiệm vụ gồm:

+ Chấm dứt hoạt động bảo lãnh tín dụng và các hoạt động có liên quan;

+ Khóa sổ kế toán; kiểm kê tài sản; đối chiếu công nợ phải thu, phải trả, lập báo cáo tài chính đến thời điểm quyết định giải thể có hiệu lực;

+ Lập danh sách các khoản tiền gửi tại các tổ chức tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng; nợ phải trả, danh sách khách hàng đang bảo lãnh tín dụng và số nợ gốc, lãi phải thu (chia ra nợ có khả năng thu hồi và nợ không có khả năng thu hồi); các khoản vốn huy động của Quỹ bảo lãnh tín dụng;

+ Gửi văn bản đề nghị cơ quan thuế xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế của Quỹ.

- Bên cạnh đó, trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi quyết định giải thể có hiệu lực, Quỹ bảo lãnh tín dụng phải bàn giao cho Hội đồng giải thể:

+ Báo cáo tài chính, sổ sách kế toán và các tài liệu liên quan đến việc giải thể của Quỹ; danh sách các khoản bảo lãnh tín dụng và trả nợ thay;

+ Toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu, quản lý, sử dụng hợp pháp của Quỹ bảo lãnh tín dụng (kể cả tài sản chưa thu hồi được).

Nội dung này thể hiện rõ nguyên tắc trách nhiệm và trật tự pháp lý trong quá trình chấm dứt hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Khi quyết định giải thể đã có hiệu lực, Quỹ bảo lãnh tín dụng không còn là chủ thể được phép hoạt động độc lập như trước, nhưng vẫn phải hoàn tất toàn bộ nghĩa vụ tài chính, hành chính và pháp lý trước khi chính thức chấm dứt tư cách pháp nhân. Những quy định cụ thể trong điều khoản này giúp đảm bảo tính minh bạch, tránh thất thoát tài sản công, bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan, đồng thời tạo cơ sở cho Hội đồng giải thể thực hiện nhiệm vụ của mình một cách thuận lợi, hợp pháp.

Về trách nhiệm của Hội đồng giải thể sau khi có quyết định giải thể:

- Sau khi có quyết định giải thể, Hội đồng giải thể có trách nhiệm:

+ Thu hồi con dấu của Quỹ bảo lãnh tín dụng để phục vụ việc giải thể;

+ Tổ chức giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng theo phương án được duyệt;

+ Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày kết thúc việc giải thể, Hội đồng giải thể báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về kết quả giải thể Quỹ bảo lãnh tín dụng.

Theo đó, Hội đồng giải thể được sử dụng con dấu của Quỹ bảo lãnh tín dụng để phục vụ công tác giải thể và yêu cầu các cơ quan nhà nước có liên quan hỗ trợ việc thu hồi tài sản.

Quy định này xác định vai trò, quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể của Hội đồng giải thể, cơ quan được thành lập để thực hiện toàn bộ quá trình chấm dứt hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Mục đích là để đảm bảo quy trình giải thể diễn ra đúng pháp luật, công khai, minh bạch, không thất thoát tài sản công, đồng thời bảo vệ quyền lợi của các bên có liên quan. Hội đồng giải thể đóng vai trò như “ban quản lý cuối cùng” của Quỹ bảo lãnh tín dụng, thay mặt cơ quan nhà nước giám sát, tổ chức và hoàn tất toàn bộ các thủ tục pháp lý, tài chính và hành chính khi Quỹ chấm dứt hoạt động.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý