Việc hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh được quy định thực hiện như thế nào?

Việc hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh được quy định thực hiện như thế nào?

Việc hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh được quy định thực hiện như thế nào?

Luật sư cho tôi hỏi: Tôi là chủ một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Trong quá trình kinh doanh, tôi nhận thấy có một số đối thủ cạnh tranh nước ngoài có dấu hiệu thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh, gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp tôi tại Việt Nam. Tôi được biết trong tố tụng cạnh tranh, đôi khi có sự phối hợp với cơ quan, tổ chức quốc tế để xử lý các vụ việc có yếu tố nước ngoài, nhưng tôi chưa rõ quy định cụ thể ra sao. Vậy việc hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh được pháp luật Việt Nam quy định thực hiện như thế nào? Mong luật sư tư vấn giúp tôi, xin cảm ơn.

MỤC LỤC

1. Hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh được quy định như thế nào?

2. Nguyên tắc hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh được ghi nhận ra sao?

 

Trả lời:

1. Hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh được quy định như thế nào?

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, các hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư xuyên biên giới phát triển mạnh mẽ, đồng thời cũng kéo theo nhiều hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh với tính chất phức tạp, phạm vi ảnh hưởng vượt ra ngoài lãnh thổ quốc gia. Những hành vi này nếu chỉ xử lý trong phạm vi nội bộ quốc gia sẽ khó đạt hiệu quả toàn diện, thậm chí còn tạo ra khoảng trống pháp lý khiến doanh nghiệp lợi dụng. Chính vì vậy, việc tăng cường hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh trở thành một yêu cầu tất yếu. Nhận thức rõ điều này, Điều 108 Luật Cạnh tranh 2018 đã quy định cụ thể về hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh như sau:

Điều 108. Hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh

1. Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia tiến hành hoạt động hợp tác với các cơ quan cạnh tranh của nước ngoài trong quá trình tố tụng cạnh tranh để kịp thời phát hiện, điều tra và xử lý đối với các hành vi có dấu hiệu vi phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh.

2. Phạm vi hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh bao gồm tham vấn, trao đổi thông tin, tài liệu hoặc các hoạt động hợp tác quốc tế phù hợp khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”

Theo đó, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia sẽ tiến hành hoạt động hợp tác quốc tế với các cơ quan cạnh tranh của nước ngoài trong suốt quá trình tố tụng cạnh tranh để có thể kịp thời phát hiện, điều tra cũng như xử lý đối với các hành vi có dấu hiệu vi phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh. Về phạm vi, việc hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh này bao gồm tham vấn, trao đổi thông tin, tài liệu hoặc các hoạt động hợp tác quốc tế phù hợp khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và cả điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Như vậy, Điều 108 Luật Cạnh tranh 2018 khẳng định vai trò then chốt của hợp tác quốc tế trong việc nâng cao hiệu quả tố tụng cạnh tranh. Ý nghĩa của quy định không chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ phát hiện và xử lý nhanh chóng các hành vi vi phạm có yếu tố nước ngoài, mà còn thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc thực hiện nghiêm túc các chuẩn mực pháp lý quốc tế, nâng cao uy tín quốc gia trên trường quốc tế. Đồng thời, cơ chế hợp tác này còn tạo điều kiện thúc đẩy môi trường cạnh tranh công bằng, minh bạch, góp phần xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập và phát triển bền vững.

2. Nguyên tắc hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh được ghi nhận ra sao?

Như đã phân tích ở trên, việc hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh là một yêu cầu tất yếu trong tiến trình toàn cầu hóa và hội nhâp quốc tế. Tuy nhiên, để đảm bảo sự phối hợp này diễn ra hiệu quả, hài hòa và không ảnh hưởng đến lợi ích cốt lõi của quốc gia, cần phải có những nguyên tắc làm nền tảng. Chính vì thế, Điều 109 Luật Cạnh tranh 2018 đã ghi nhận những nguyên tắc trong việc hợp tác quốc tế này như sau:

Điều 109. Nguyên tắc hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh

1. Hợp tác quốc tế trong tố tụng cạnh tranh được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

2. Trường hợp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa ký kết hoặc chưa gia nhập điều ước quốc tế có liên quan thì việc hợp tác quốc tế trong tố tụng cạnh tranh được thực hiện theo nguyên tắc có đi có lại nhưng không được trái với Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế và tập quán quốc tế.

Theo đó, mọi hoạt động hợp tác quốc tế trong tố tụng cạnh tranh đều phải được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Điều này phản ánh tinh thần thượng tôn pháp luật, bảo vệ vững chắc quyền tự quyết của quốc gia trong quá trình hợp tác quốc tế. Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế phải dựa trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Đặc biệt, trong trường hợp Việt Nam chưa ký kết hoặc chưa gia nhập điều ước quốc tế có liên quan, việc hợp tác quốc tế trong tố tụng cạnh tranh vẫn có thể được thực hiện nhưng phải tuân theo nguyên tắc có đi có lại và không được trái với Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế cũng như tập quán quốc tế.

Như vậy, điều luật này không chỉ đưa ra khuôn khổ nguyên tắc pháp lý rõ ràng để định hướng các hoạt động hợp tác quốc tế trong tố tụng cạnh tranh, mà còn khẳng định lập trường của Việt Nam rằng vừa sẵn sàng hội nhập, hợp tác để xử lý hiệu quả các vụ việc cạnh tranh xuyên biên giới, vừa kiên định bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật. Đây chính là nền tảng quan trọng để xây dựng mối quan hệ hợp tác công bằng, minh bạch và bền vững trong lĩnh vực cạnh tranh, phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hiện nay.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý