Tổng hợp 10 bản án hủy, sửa về tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng (Dân sự)

MỤC LỤC

1. Bản án dân sự phúc thẩm số 601/2023/DS-PT ngày 24/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thi công.

2. Bản án dân sự phúc thẩm số 01/2022/DS-PT ngày 04/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng.

3. Bản án dân sự phúc thẩm số 373/2020/DS-PT ngày 21/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng.

4. Bản án dân sự phúc thẩm số 529/2019/DS-PT ngày 07/6/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thi công và bồi thường thiệt hại.

5. Bản án dân sự phúc thẩm số 155/2019/DS-PT ngày 06/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thi công.

6. Bản án dân sự phúc thẩm số 39/2024/DS-PT ngày 16/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang về tranh chấp hợp đồng thi công.

7. Bản án dân sự phúc thẩm số 172/2022/DS-PT ngày 19/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng.

8. Bản án dân sự phúc thẩm số 659/2021/DS-PT ngày 02/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng.

9. Bản án dân sự phúc thẩm số 1113/2020/DS-PT ngày 21/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng.

10. Bản án dân sự phúc thẩm số 22/2021/DS-PT ngày 12/01/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng xây dựng.

 

1. Bản án dân sự phúc thẩm số 601/2023/DS-PT ngày 24/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thi công.

Nội dung hủy án:

(i) Theo bản dự toán khối lượng vật dụng trên công trình (nhà số 81AHVT) của Cty HD, thì phần nội thất cửa đi, cửa sổ có các cánh cửa đi D1, D2, D4, D5 có chất liệu là gỗ công nghiệp. Tại Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 17/11/2021 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, cũng như tại Bảng nghiệm thu hoàn thành hạng mục công trình ngày 26/11/2021 phía Cty HD cũng không đề cập xem xét các hạng mục này. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn và bị đơn đã thừa nhận các cánh cửa này đã được Cty HD lắp đặt hoàn chỉnh. Xét thấy, đây là phần gỗ mà Cty HD đã thi công đúng với dự toán công trình nhưng, các bên chưa thống nhất nghiệm thu, Tòa án cấp sơ thẩm gộp chung và buộc Cty HD tháo dỡ toàn bộ “Phần nội thất liên quan đến gỗ mà Công ty đã cung cấp, lắp đặt và hoàn Th nội thất tại căn nhà số 81AHVT” là chưa đúng, gây thiệt thòi về quyền lợi cho Cty HD.

(ii) Đối với các vật dụng trên công trình, gồm 4 đèn trần các loại, máy cắt gạch và xe đẩy. Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, nguyên đơn đã thừa nhận hiện trong nhà nguyên đơn còn một thùng carton của bị đơn, nguyên đơn cũng không rõ là gì. Trong quá trình xem xét thẩm định tại chỗ Tòa án cấp sơ thẩm chưa mở thùng này để liệt kê, định giá các loại vật tư bên trong, nhằm khấu trừ số tiền mà bị đơn phải hoàn trả, mà đã tuyên án “Không chấp yêu cầu của Cty TNHH HD360 buộc ông NHNT trả các tài sản gồm:...”, là chưa giải quyết hết các vấn đề mà phía bị đơn đã đưa ra.

(iii) Do vụ án có tình tiết mới về giá trị của 06 cánh cửa gỗ, mà cấp sơ thẩm không biết và chưa được giải quyết, để bảo đảm chế độ hai cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm theo khoản 1 Điều 17 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên cần thiết phải hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

2. Bản án dân sự phúc thẩm số 01/2022/DS-PT ngày 04/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng.

Nội dung hủy án 

Về nội dung giải quyết vụ án:

Tại phiên tòa phúc thẩm ông Phạm Đức B người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Hoàng Thị H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm.

Đại diện bị đơn không kháng cáo đề nghị y án sơ thẩm.

Căn cứ hợp đồng thi công xây dựng lập ngày 01/7/2015 giữa bên A ông Trần Kim D (bên nhận thi công) với bên B chủ nhà là bà Hoàng Thị H.

Xét thấy về nội dung hợp đồng bên B giao cho bên A thực hiện thi công xây dựng nhà ở gia đình theo diện tích 05m x 15m tại địa chỉ nhà số 23/15 đường BBB, phường TTT, quận TPP, Thành phố Hồ Chí Minh. Thời hạn thi công là 03 tháng từ ngày 01/7/2015 đến ngày 01/10/2015.

Nguyên đơn có cung cấp hai hợp đồng thi công xây dựng: Hợp đồng thi công được ký viết tay giữa bà Hoàng Thị H với ông Trần Kim D ghi ngày 01/7/2015 (BL136) và Hợp đồng xây dựng và sửa chữa đánh máy được ký kết giữa bà Hoàng Thị H với Công ty TNHH Phát triển Xây dựng - Xuất nhập khẩu QQ được ký vào ngày 07/7/2015 (BL245). Cả hai hợp đồng đều cùng một nội dung và đối tượng là xây dựng sửa chữa nhà số 23/15 đường BBB, phường TTT, quận TPP, Thành phố Hồ Chí Minh.

Xét, Tòa sơ thẩm không đưa Công ty TNHH Phát triển Xây dựng - Xuất nhập khẩu QQ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan như vậy là vi phạm nghiêm trọng tố tụng. Tuy nhiên, do nguyên đơn cung cấp hợp đồng xây dựng và sửa chữa ký ngày 07/7/2015, đựợc ký kết giữa bà Hoàng Thị H với Công ty TNHH Phát triển Xây dựng - Xuất nhập khẩu QQ sau khi vụ án đã được xét xử sơ thẩm, thể hiện tại bút lục 245 (trong tập kháng cáo). Nên được xem xét là tình tiết mới không phải lỗi của cấp sơ thẩm.

Từ những nhận định như trên, xét thấy chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát cần thiết phải hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để xét xử lại nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

3. Bản án dân sự phúc thẩm số 373/2020/DS-PT ngày 21/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng.

Nội dung hủy án:

Về nội dung kháng cáo.Theo Đơn khởi kiện ngày 23/7/2013 (bút lục số 28-29), nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán khoản nợ liên quan đến Hợp đồng ngày 09/3/2011 được ký kết giữa hai bên liên quan đến công trình thuộc Gói thầu số 28 và các công trình khác.

Tại Biên bản hòa giải ngày 07/5/2014 (bút lục 78-79) và tại Biên bản phiên tòa sơ thẩm (bút lục số 232-233), đại diện Công ty xác định chỉ khởi kiện đối với số nợ của Hợp đồng của công trình gói thầu số 28 DT/PMU/CTTK/XL 28/2010, hạng mục công trình trên kênh, thuộc tiểu dự án thủy lợi hồ Dầu Tiếng.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 15/11/2019 đại diện nguyên đơn cũng xác nhận đơn khởi kiện và tại phiên tòa sơ thẩm Công ty xác định chỉ khởi kiện đối với số nợ của Hợp đồng.

Như vậy phạm vi xét xử của vụ án này chỉ là số nợ phát sinh từ Hợp đồng của công trình gói thầu số 28 DT/PMU/CTTK/XL 28/2010, hạng mục công trình trên kênh, thuộc tiểu dự án thủy lợi hồ Dầu Tiếng.

Căn cứ vào Bảng đối chiếu công nợ ngày 20/12/2012, Biên bản hòa giải ngày 07/5/2014 và sự thừa nhận của nguyên đơn và bị đơn tại phiên tòa phúc thẩm ngày 15/11/2019 thì ngoài khoản nợ gói thầu số 28, thì số nợ thể hiện trong Bảng đối chiếu công nợ ngày 20/12/2012 còn các khoản nợ của công trình khác ngoài Hợp đồng.

Tại Biên bản hòa giải ngày 07/5/2014, bị đơn thừa nhận trong số tiền nợ của Bảng đối chiếu công nợ 461.000.636 đồng thì chỉ có 332.000.636 đồng là nợ của Hợp đồng, còn lại 129.000.000 đồng là của các công trình khác.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 15/11/2019, các bên đã đề nghị Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa để tự đối chiếu công nợ của Hợp đồng để tách trong phần nợ của Hợp đồng trong Biên bản ngày 20/12/2012, nhưng đến phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị đơn xác định các bên không thực hiện việc đối chiếu.

Do cấp sơ thẩm không thực hiện việc đối chất khi có mâu thuẫn về số nợ xuất phát từ việc thực hiện Hợp đồng và chấp nhận toàn bộ số nợ 461.000.636 đồng thể hiện trong Bảng đối chiếu công nợ ngày 20/12/2012 là vượt quá yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và gây thiệt hại đến quyền lợi của bị đơn. Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa nên không thể đối chất làm rõ được. Sai sót trong thu thập chứng cứ và chứng minh là không thể bổ sung được ở cấp phúc thẩm.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn, hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 29/2016/DS-ST ngày 27/6/2016 của Tòa án nhân dân Quận A, chuyển hồ sơ vụ án cho TAND Quận A giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về nội dung vụ kiện là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

4. Bản án dân sự phúc thẩm số 529/2019/DS-PT ngày 07/6/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thi công và bồi thường thiệt hại.

Nội dung hủy án:

(i) Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn cung cấp 02 (hai) Biên bản bàn giao chứng cứ ngày 12/8/2016 do ông H và bà K lập để giao nộp chứng cứ cho nhau, trong đó:

- Ông H cung cấp cho bà K các giấy tờ thi công từ ngày 10/02/2014 đến ngày 30/3/2014, giá trị là 250.000.000 đồng (theo như đơn khởi kiện);

- Bà K cung cấp chứng cứ cho ông H trong đó có “Bảng báo giá khối lượng công trình tôi đã thanh toán”. Mặc dù đã được gạch bỏ nhưng sau đó vẫn có chữ ký của ông H “đã nhận”.

Tài liệu trong hồ sơ (Bút lục số 19 và 20) thể hiện: Ngày 19/7/2016, Tòa án nhân dân huyện B có Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải triệu tập đương sự tham gia vào lúc 08 giờ 30 ngày 12/8/2016. Ngày 12/8/2016, Tòa án cấp sơ thẩm có lập Biên bản ghi nhận sự vắng mặt do bà Lương Tú X vắng mặt. Tuy nhiên, trong biên bản này không thể hiện ý kiến của nguyên đơn và bị đơn có đồng ý tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải mà vắng mặt bà X hay không.

Do Tòa án cấp sơ thẩm cũng không thực hiện phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 20/8/2016 và các lần Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải sau ngày 12/8/2016 không có đề cập đến chứng cứ do bà K cung cấp nên việc tại phiên tòa phúc thẩm ông H xuất trình chứng cứ là Biên bản bàn giao chứng cứ ngày 12/8/2016 giữa bà K và ông H trong đó có “Bảng báo giá khối lượng công trình tôi đã thanh toán” là có hay không và nội dung của “Bảng báo giá khối lượng công trình tôi đã thanh toán” là như thế nào thì Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ để xác định.

(ii) Từ nhận định [2.1] và [2.2] có căn cứ xác định như sau: Sau khi thực hiện xong Hợp đồng thi công tháng 11/2013 với giá trị 345.000.000 đồng, ông H có tiếp tục thi công sửa chữa đối với căn biệt thự số 72 Đường số 9, khu dân cư S, ấp 4, xã E, huyện B. Tuy nhiên, giữa ông H và bà K không thống nhất được: Việc làm này được có thỏa thuận hay không; Thỏa thuận với ai (nếu có, vì theo Hợp đồng thi công tháng 11/2013 bà K chỉ là người đại diện ký hợp đồng); Thỏa thuận thi công đối với hạng mục nào; Thực tế đã thi công được hạng mục nào; Số tiền bà K đã trả cho ông H là bao nhiêu (665.000.000 đồng – như lời khai ông H hay 630.000.000 đồng như lời khai của bà K)?

Như vậy là có sự mâu thuẫn trong lời khai giữa các bên đương sự nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã không tiến hành đối chất theo quy định tại Điều 100 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà K vắng mặt nên cấp phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được, do vậy cần hủy bản bán sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

Việc chưa giải quyết được tranh chấp về hợp đồng thi công thì không thể giải quyết phần tranh chấp về bồi thường thiệt hại, do vậy cần hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về nội dung vụ kiện là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Đình H; Hủy bản án sơ thẩm.

5. Bản án dân sự phúc thẩm số 155/2019/DS-PT ngày 06/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thi công.

Nội dung hủy án:

Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, nguyên đơn và bị đơn xác định: Trước khi các bên ký Hợp đồng thi công xây dựng ngày 16/4/2009, ông D có yêu cầu ông P ký Hợp đồng thi công xây dựng (phần nhân công) số 08/HĐ-09 ngày 16/2/2009 với Xí nghiệp Đ.

Nguyên đơn và bị đơn thống nhất số tiền ông P thanh toán cho ông D là 813.700.000 đồng, bao gồm: Thanh toán trực tiếp cho ông D 700.000.000 đồng; Thanh toán cho 20.000.000 đồng cho Xí nghiệp Đ ngày 1/2009. Sau này khi thanh lý hợp đồng thì Xí nghiệp Đ đã hoàn trả cho ông D ngày 29/01/2011; Thanh toán cho ông Cương 93.700.000 đồng (từ ngày 19/9/2009 đến ngày 21/11/2009).

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện nguyên đơn không chấp nhận số tiền 110.000.000 đồng, bao gồm: 50.000.000 đồng (ông P thanh toán cho ông Cương vào các ngày 28/8/2009, 05/9/2009 và ngày 13/9/2009) và 60.000.000 đồng (ông P thanh toán cho ông Hoan vào ngày 29/11/2009 và ngày 5/12/2009) là số tiền thanh toán của Hợp đồng thi công xây dựng ngày 16/01/2009 vì ông D không ủy quyền cho ông Cương, ông Hoan nhận tiền.

Xét, để thực hiện Hợp đồng thi công xây dựng (phần nhân công) số 08/HĐ- 09 ngày 16/2/2009, thì Xí nghiệp Đ đã có Quyết định số 42/QĐ-TC ngày 20/02/2009 (Bút lục số 50) trong đó quy định:

Điều 1: Nay phân công đồng chí Đinh Quốc Khánh D - kỹ sư xây dựng.....

Phụ trách chung công trình...

Điều 2: Nay phân công đồng chí Trịnh Duy Cương – cán sự xây dựng...... Sinh ngày 8/4/1975, CMND số 288988165 cấp ngày 25/10/2006 tại Công an tỉnh Bình Dương

Trực tiếp cung cấp vật tư thiết bị ....

Như vậy theo nội dung Hợp đồng thi công xây dựng (phần nhân công) số 08/HĐ-09 ngày 16/2/2009 thì ông D và ông Cương là nhân viên của Xí nghiệp Đ và chịu sự quản lý của Xí nghiệp Đ. Như vậy việc cấp sơ thẩm chưa xác minh địa chỉ của ông Cương thông qua Xí nghiệp xây lắp số 2 – Công ty Bạch Đằng mà đã nhận định: Do nguyên đơn không biết địa chỉ cư trú trước đây cũng như hiện nay của ông Cương nên không thể triệu tập ông Cương tham gia tố tụng, là chưa thực hiện đầy đủ việc thu thập chứng cứ và chứng minh theo quy định tại Chương VII Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được.

Do đó, yêu cầu kháng cáo của ông Trương Văn P là có căn cứ để chấp nhận.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về nội dung vụ kiện là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trương Văn P, hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 439/2018/DS-ST ngày 28/6/2018 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 20/2018/QĐ- SCBSBA ngày 9/7/2018 của Tòa án nhân dân quận T, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận T giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

6. Bản án dân sự phúc thẩm số 39/2024/DS-PT ngày 16/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang về tranh chấp hợp đồng thi công.

Nội dung sửa án:

(i) Về quan hệ pháp luật: Giữa nguyên đơn ông Trần Hải S và bị đơn ông Trần Linh C có ký kết hợp đồng giao khoán thi công công trình cống trạm bơm K1. Do không thỏa thuận được các khoản tiền phải thanh toán cho nhau khi chấm dứt hợp đồng nên phát sinh tranh chấp. Do đó, quan hệ pháp luật phải là “Tranh chấp hợp đồng thi công”, Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng giao khoán” là chưa phù hợp, cần điều chỉnh lại.

(ii) Xét thấy ông C kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông C. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không tính án phí có giá ngạch đối với yêu cầu phản tố của ông C không được chấp nhận với số tiền là 850.000 đồng là thiếu sót, nên cần sửa bản án sơ thẩm để điều chỉnh lại.

7. Bản án dân sự phúc thẩm số 172/2022/DS-PT ngày 19/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng.

Nội dung sửa án:

(i) Do cá nhân ông Tống Minh Nghĩa Q là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án, đồng thời là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH xây dựng và tư vấn thiết kế DH (là bị đơn) nên có sự nhầm lẫn, chồng chéo về vai trò và tư cách của ông Tống Minh Nghĩa Q trong lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn nhưng Cấp sơ thẩm không làm rõ, cụ thể:

Nguyên đơn xác định ký hợp đồng thi công với bị đơn là Công ty DH, đã thanh toán tiền mặt là 700.000.000đ cho Công ty ông Q, đã thực hiện thanh toán 4 tỷ đồng vào tài khoản cá nhân của ông Q (không đúng với số tài khoản mà Công ty DH đã cung cấp được ghi nhận trong hợp đồng thi công ngày 30/3/2019) và xác định Công ty ông Q đã nhận 4,7 tỷ đồng. Lời trình bày này là có sự nhập nhằng, lẫn lộn giữa cá nhân ông Q và Công ty DH.

Bị đơn trong lời khai, lời trình bày của mình tại Cấp sơ thẩm, lúc thì trình bày với vai trò là Công ty, lúc thì trình bày trên cơ sở cá nhân ông Q. Sự chồng chéo, nhầm lẫn này không được Cấp sơ thẩm làm rõ.

Ngay cả khi tiến hành lập Biên bản lấy lời khai của đương sự là bị đơn Công ty TNHH xây dựng và tư vấn thiết kế DH, Cấp sơ thẩm lấy lời khai bị đơn là Công ty (do ông Q đại diện) nhưng câu hỏi được Cấp sơ thẩm đưa ra lại là những câu hỏi đối với cá nhân ông Q. Việc này đã ảnh hưởng đến nhận định của Cấp sơ thẩm khi xét xử vụ án do đánh giá chứng cứ không đúng với bản chất sự việc.

Cấp sơ thẩm không làm rõ lý do tại sao nguyên đơn thanh toán cho bị đơn 4,7 tỷ đồng trong khi giá trị hợp đồng ban đầu là 3.268.000.000đ, cộng với trong quá trình thi công công trình thì chi phí xây dựng phát sinh thêm ngoài hợp đồng là 277.000.000đ, tổng giá trị của hợp đồng là 3.545.000.000đ các bên đương sự đều biết rõ.

(ii) Cần xác định giá trị hợp đồng đã được thực hiện là 3.545.000.000đ, trừ đi tiền mượn và chi phí điện nước là 12.600.000đ, còn 3.532.400.000đ. Bà T ông P đã thanh toán cho Công ty DH là 3.300.000.000đ (ghi nhận tại mục [2.2] + ghi nhận tại mục [2.5.2]). Như vậy bà T ông P còn nợ lại Công ty DH là 232.400.000đ. Trong vụ kiện này, bị đơn không có yêu cầu phản tố nên không xem xét đối với số tiền 232.400.000đ nguyên đơn còn nợ bị đơn. Trong trường hợp phát sinh tranh chấp về số tiền này, bị đơn có quyền khởi kiện nguyên đơn bằng một vụ án khác.

Do đó Cấp sơ thẩm nhận định “Bị đơn đã nhận 4,7 tỷ đồng, bị đơn đã trả lại cho nguyên đơn là 900.000.000đ, số tiền bị đơn thực nhận là 3.800.000.000đ, giá trị hợp đồng là 3.545.000.000đ, số tiền bị đơn mượn và chi phí điện nước còn nợ nguyên đơn là 12.600.000đ. Do đó, xét thấy yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả lại số tiền thanh toán chênh lệch thừa 255.000.000đ và 12.600.000đ tiền mượn và chi phí điện nước là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận, cần buộc bị đơn trả cho nguyên đơn tổng số tiền là 267.600.000đ” là chưa chính xác.

8. Bản án dân sự phúc thẩm số 659/2021/DS-PT ngày 02/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng.

Nội dung sửa án:

Án sơ thẩm nhận định, căn cứ Hợp đồng thi công xây dựng công trình phần nhân công ngày 29/07/2017, đến thời điểm hiện tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xuất nhập khẩu Nông sản – Xây dựng - Truyền thông G không cung cấp được biên bản nghiệm thu bàn giao đưa công trình vào sử dụng cho bà P nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả số tiền bảo hành là 50.000.000 đồng. Như đã nhận định trên, mặc dù hai bên chưa ký biên bản nghiệm thu công trình, tuy nhiên căn cứ Biên bản bàn giao tạm thời công trình nhà Phương ngày 03/02/2019 (tạm thời) KDC BigC thì “Tất cả các hạng mục bên A đã làm xong và sẽ chỉnh sửa lại các hạng mục đã ghi trên và bàn giao cho chủ nhà quản lý từ ngày 3/2/2019 (15giờ 00)”. Đồng thời, bà P đã giao số tiền còn lại là 79.500.000 đồng của đợt 8 theo Điều 7 Hợp đồng thi công xây dựng công trình phần nhân công và lời trình bày của bà P tại Bản tường trình ngày 14/12/2020 và Biên bản hòa giải do Tòa án nhân dân quận Thủ Đức (nay là thành phố Thủ Đức) lập ngày 22/12/2020. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

9. Bản án dân sự phúc thẩm số 1113/2020/DS-PT ngày 21/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng.

Nội dung sửa án:

(i) Đối với chi phí giám định và định giá.

Chi phí giám định kiểm tra tính đối xứng và độ phình của các cột công trình xây dựng là 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng), ông D tự nguyện nộp chi phí này (Phiếu thu số: 0002538 ngày 22/4/2019 của Công ty Cổ phần Định Giá và Đầu tư Kinh doanh Bất động sản Thịnh Vượng) nên ghi nhận.

Chi phí định giá công trình xây dựng là 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng). Do yêu cầu phản tố của Công ty A không được chấp nhận nên phải chịu. Công ty A đã nộp 9.000.000 đồng (Phiếu thu số: 0002742 ngày 14/11/2019 của Công ty Cổ phần Định Giá và Đầu tư Kinh doanh Bất động sản Thịnh Vượng).

Như vậy, chi phí giám định và định giá nguyên đơn và bị đơn phải chịu như tại mục [5.1], mục [5.2] và đã nộp đủ.

(ii) Về án phí dân sự sơ thẩm: Công ty A phải thanh toán lại cho ông D số tiền 330.000.000 đồng nên phải chịu án phí theo Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án, cụ thể: 330.000.000 đồng x 5% = 16.500.000 đồng; Do không chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty A số tiền 411.543.000 đồng nên Công ty A phải chịu 20.461.720 đồng (Hai mươi triệu bốn trăm sáu mươi mốt ngàn bảy trăm hai mươi đồng); Tổng cộng Công ty A phải chịu án phí sơ thẩm là 36.961.720 đồng (Ba mươi sáu triệu chín trăm sáu mươi mốt ngàn bảy trăm hai mươi đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí Công ty A đã nộp là 15.160.000 đồng (Mười lăm triệu một trăm sáu mươi ngàn đồng). Công ty A còn phải nộp 21.801.720 đồng (Hai mươi mốt triệu tám trăm lẻ một ngàn bảy trăm hai mươi đồng). Tuy nhiên tại phần quyết định của bản án sơ thẩm, tuyên: “3. Về án phí dân dân sự sơ thẩm: Công ty TNHH Thương mại Xây dựng A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 33.661.720 đồng (Ba mươi ba triệu sáu trăm sáu mươi mốt ngàn bảy trăm hai mươi đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 15.160.000 đồng (Mười lăm triệu một trăm sáu mươi đồng) theo Biên lai thu tiền số AA/2017/0018732 ngày 26/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M; Công ty TNHH Thương mại Xây dựng A còn phải nộp 18.501.720 đồng (Mười tám triệu năm trăm lẻ một ngàn bảy trăm hai mươi đồng) là không đúng nên cấp phúc sửa án phí sơ thẩm như đã nhận định nêu trên.

Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử, xét thấy yêu cầu kháng cáo của bị đơn Công ty A không có cơ sở chấp nhận; sửa một phần bản án sơ thẩm như đã phân tích tại mục [5] và mục số [6].

10. Bản án dân sự phúc thẩm số 22/2021/DS-PT ngày 12/01/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng xây dựng.

Nội dung sửa án:

(i) Về chứng thư giám định xây dựng: Xét thấy chứng thư giám định xây dựng không ghi nhận được tiến độ, khối lượng công việc cần thi công của từng giai đoạn theo thỏa thuận của các bên, việc thẩm định giá trị khối lượng công việc đã thi công không giúp đánh giá được khối lượng công việc theo thỏa thuận của từng giai đoạn, việc thẩm định cũng không ghi nhận toàn bộ các chi phí nguyên vật liệu sử dụng tại công trình (bao gồm cả phần còn dôi dư tại công trình theo biên bản thẩm định tại chỗ và các chi phí khác như phần điện, nước đã thi công dang dở...). Do đó, căn cứ vào kết quả thẩm định giá trị đã thi công tại công trình để buộc bị đơn thanh toán phần giá trị ứng trước chưa được thi công như Tòa án cấp sơ thẩm nhận định là không phù hợp.

(ii) Tại phiên tòa phúc thẩm, phía nguyên đơn không xác định được thời điểm nguyên đơn đã lấy lại mặt bằng để chấm dứt sự thi công của bị đơn tại công trình; Người đại diện hợp pháp của bị đơn cũng như ông Dương M khẳng định tại BL.146 là công nhân của công ty T bị yêu cầu ra khỏi công trình vào ngày 16/08/2018. Vậy, từ ngày ký hợp đồng và bắt đầu thực hiện thi công hoàn thiện công trình là 28/09/2017, thời hạn thực hiện là 90 ngày, cộng 90 ngày gia hạn do các lý do bị đơn nại ra, vậy thời hạn hoàn thành công trình phải là khoảng 06 tháng – khoảng 28/03/2018 là hoàn thành. Nhưng khi bị yêu cầu ra khỏi công trình là ngày 16/08/2018, công trình vẫn còn dang dở và khối lượng công trình đạt được rất ít so với bản dự toán công trình do chính ông Dương M nộp Tòa án ngày 03/07/2019 (BL.131-139). Bản dự toán này thay vì được lập trước khi ký kết hợp đồng và được giao cho chủ đầu tư là nguyên đơn, nhưng ông Dương M đã lập dự toán không có chữ ký xác nhận của nguyên đơn và chỉ giao nộp cho Tòa án vào ngày 03/07/2019.

Vậy, bị đơn đã liên tiếp vi phạm các quy định của luật pháp về xây dựng và cũng như thỏa thuận của hợp đồng khi không bàn giao bản dự toán công trình cho chủ đầu tư khi ký hợp đồng xây dựng, không lập hồ sơ thanh toán từng giai đoạn với chủ đầu tư để minh bạch kết quả thi công xây dựng, quá trình thi công kéo dài gây nhiều thiệt hại cho chủ đầu tư, đây là các lỗi vi phạm nghiêm trọng nên chủ đầu tư đã đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng với nhà thầu - bị đơn - là đúng quy định theo Điểm c Khoản 1 Điều 75 Luật Xây dựng năm 2003 và Khoản 1 Điều 426 Bộ luật dân sự năm 2005. Điều này cũng phù hợp quy định của Khoản 1 Điều 428 Bộ luật dân sự năm 2015: “Một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác”. Do đó, yêu cầu của nguyên đơn về việc bị đơn hoàn trả lại phần tiền ứng trước chưa được đưa vào thi công là có căn cứ, tuy nhiên việc Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn hoàn trả lại phần tiền chưa thi công dựa trên kết quả chưng thư giám định xây dựng là chưa phù hợp, cần điều chỉnh lại.

(iii) Về phía bị đơn cho rằng nguyên đơn đã vi phạm điều khoản thanh toán do thanh toán không đủ số tiền của giai đoạn 2, theo quy định tại Điều V của Hợp đồng, bị đơn được hưởng thời hạn gia hạn bàn giao công trình vì bất kỳ các lý do được liệt kê, trong đó có lý do bên A chậm thanh toán cho bên B theo điều khoản III tại Hợp đồng. Từ đó, bị đơn có yêu cầu phản tố buộc nguyên đơn thanh toán số tiền còn thiếu của giai đoạn 2 và lãi do chậm thanh toán.

Theo quy định tại Điểm c và d Khoản 1 Điều 76 Luật Xây dựng năm 2003, nhà thầu được quyền “c) Yêu cầu thanh toán giá trị khối lượng xây dựng hoàn thành theo đúng hợp đồng; d) Dừng thi công xây dựng công trình nếu bên giao thầu không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng đã ký kết gây trở ngại và thiệt hại cho nhà thầu;”, tuy nhiên, do bị đơn không thực hiện lập hồ sơ thanh toán từng giai đoạn với chủ đầu tư theo nghĩa vụ của mình nên không có căn cứ cho rằng chủ đầu tư là nguyên đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán với mình, vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng nguyên đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán để chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn là không phù hợp, cần sửa lại án sơ thẩm.

(iv) Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa phúc thẩm là có cơ sở, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận đề nghị của viện kiểm sát và chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn, sửa một phần bản án sơ thẩm để điều chỉnh lại nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của bị đơn do không thực hiện thi công như sau:

- Bị đơn có nghĩa vụ hoàn trả lại 300.000.000 đồng tiền nguyên đơn đã ứng trước cho giai đoạn thi công thứ hai nhưng bị đơn không thực hiện.

- Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn trong việc không tính tiền lãi phạt trên số tiền ứng trước 300.000.000 đồng.

- Đối với kết quả giám định xây dựng, kết quả xem xét thẩm định tại chỗ được thực hiện theo yêu cầu của ngyên đơn nhằm thu thập chứng cứ chứng minh cho vụ án, tuy nhiên kết quả của chứng thư cũng như biên bản thẩm định tại chỗ không được sử dụng trong việc giải quyết vụ án nên các chi phí tố tụng này do nguyên đơn chịu.

- Ngoài ra, bản án sơ thẩm cũng thiếu sót trong phần quyết định không tuyên rõ các quyết định giải quyết của Tòa án đối với phần yêu cầu khởi kiện nguyên đơn đã rút dù đã được xem xét giải quyết tại phần nhận định nên cần khắc phục thiếu sót này.

Do sửa án sơ thẩm nên án phí sơ thẩm được tính lại như sau:

Bị đơn chịu án phí đối với phần yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận là 300.000.000 đồng x 5% = 15.000.000 đồng.

Nguyên đơn chịu án phí 5% trên số tiền yêu cầu nhưng không được chấp nhận là 520.332.000 đồng - 300.000.000 đồng = 220.332.000 đồng nhưng được miễn án phí do là người cao tuổi theo quy định tại Điều 2 Luật Người cao tuổi năm 2009 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Nguyên đơn được nhận lại tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp.

Góp ý