MỤC LỤC
1. Bản án dân sự phúc thẩm số 03/2022/DS-PT ngày 05/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản.
Nội dung hủy án:
Tại cấp sơ thẩm người đại diện của Công ty HT đã thừa nhận Công ty HT còn nợ bà B 440.000.000 đồng. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn Công ty HT kháng cáo cho rằng giấy xác nhận công nợ ngày 18/5/2021 có sự nhầm lẫn, cụ thể: ngày 26/3/2021 Công ty HT đã giao cho bà B số tiền 1.600.000.000 đồng và ngày 20/4/2021, Công ty HT đã chuyển khoản cho bà B 300.000.000 đồng vào tài khoản của anh Hồ Công T (con trai bà B), theo số tài khoản 0501018758xx mở tại Ngân hàng Sacombank Đ, nhưng 02 khoản tiền này chưa được tính toán vào để đối chiếu công nợ giữa hai bên; đồng thời ông T cung cấp chứng cứ là 43 trang giấy được sao chụp từ sổ theo dõi nợ với bà B và Giấy ủy nhiệm chi về việc Công ty HT chuyển tiền cho bà B qua tài khoản của anh Hồ Công T vào ngày 20/4/2021, xét thấy:
Đối với khoản tiền 1.600.000.000 đồng Công ty HT đã giao cho bà B vào ngày 26/3/2021, thì Công ty HT có ghi vào sổ theo dõi, bà B thừa nhận có ký xác nhận đã nhận khoản tiền này, bà B cho rằng khoản tiền này đã được hai bên đưa vào đối chiếu công nợ. Tuy nhiên, ông Trần Quang T xác định do có nhầm lẫn nên mới gạch bỏ ở sổ theo dõi nợ, còn thực tế khoản tiền này chưa được đưa vào đối chiếu công nợ, vì trong khoảng thời gian từ ngày 24/3/2021 đến ngày 05/4/2021, bà B đã có 12 lần nhận tiền của Công ty HT nhưng chỉ mới quyết toán, đối chiếu với nhau 11 lần đã nhận tiền, riêng lần nhận tiền ngày 26/3/2021 là 1.600.000.000 đồng thì chưa đối chiếu. Đại diện Công ty HT đã cung cấp bảng kê chi tiết và sổ theo dõi, để chứng minh cho phần trình bày của mình.
Đối với khoản tiền 300.000.000 đồng chuyển khoản ngày 20/4/2021, Công ty HT đã cung cấp chứng cứ là Ủy nhiệm chi xác nhận việc đã chuyển khoản cho bà B 300.000.000 đồng vào tài khoản của anh Hồ Công T (con bà B) số tài khoản 0501018758xx mở tại Ngân hàng Sacombank. Bà B thừa nhận có nhận khoản tiền này và cho rằng số tiền này là tiền phía Công ty HT trả tiền nợ mua cà phê, nhưng bà B chưa cung cấp được chứng cứ, tài liệu để xác định khoản tiền 300.000.000 đồng là để trả nợ hay thanh toán cho lần mua bán hàng cụ thể nào và đã được đối chiếu nợ chưa; đồng thời qua tài liệu phía Công ty HT cung cấp thì trong ngày 20/4/2021 có 02 lần chuyển tiền cho bà B, mỗi lần là 300.000.000 đồng. Do đó, cần phải làm rõ số tiền 300.000.000 đồng chuyển vào tài khoản của Hồ Công T là để trả khoản tiền hàng hoặc tiền nợ nào.
Như vậy, do có phát sinh tình tiết mới tại cấp phúc thẩm, có thể làm thay đổi nội dung vụ án và các tài liệu, chứng cứ mới do đương sự cung cấp còn có mâu thuẫn, chưa được làm rõ mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, cần chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty HT, hủy Bản án dân sự sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện Ea H’Leo và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm để xét xử lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm, là phù hợp.
2. Bản án dân sự phúc thẩm số 08/2022/DS-PT ngày 20/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản, hợp đồng mua bán.
Nội dung hủy án:
(i) Về nội dung: Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Ông S với chị X thỏa thuận mua bán lúa nếp ruột và tấm nếp, hình thức khi anh S có nhu cầu đặt hàng thì thông báo cho chị X số lượng và loại hàng đồng thời chuyển tiền ứng trước theo yêu cầu của chị X hoặc ông S nhờ người khác chuyển tiền theo yêu cầu của chị X, cũng có khi chị X nhận tiền mặt, sau khi chị X nhận tiền đều ghi xác nhận vào các quyền sổ của ông S và giao hàng để trừ vào các khoản tiền bên ông S giao hoặc chuyển khoản, tổng số tiền chị X làm biên nhận là 448.778.800.000đ trừ đi số hàng đã giao là 431.129.815.000đ trừ đi số tiền chị X trả lại không thực hiện hợp đồng là 6.500.000.000đ nên chị X còn nợ lại ông S số tiền 11.148.985.000đ.
Chị X trình bày: Các khoản tiền ông S chuyển vào tài khoản của chị không đúng với biên nhận mà chị làm cho ông S. Trong đó có những khoản tiền do ông D giám đốc Công ty TNHH Thành Bích, bà Chi chuyển cho chị cũng không đúng với số tiền chị nhận được trong tài khoản.
Chị X có yêu cầu phản tố chị không còn nợ tiền mua bán hàng hóa và tiền vay của ông S. Trong quá trình mua bán lúa, nếp, chị đã giao hàng hóa cho ông S vượt quá số tiền mà ông S đã trả cho chị, số tiền vượt quá là 28.768.251.000 đồng. Chị yêu cầu ông S phải trả lại cho chị số tiền 28.768.251.000 đồng.
Hội đồng xét xử thấy rằng: Việc giao nhận tiền giữa ông S, bà X qua 2 hình thức: bằng tiền mặt, chuyển khoản, đa số phần lớn là chuyển khoản. Theo lời trình bày của bà X, mỗi lần ông S chuyển tiền cho bà đều yêu cầu bà ký tên trước vào sổ nhận tiền, sau đó mới chuyển khoản. Tuy nhiên số tiền mà bà ký nhận trong sổ của ông S lúc nào cũng cao hơn số tiền mà bà nhận được trong tài khoản ngân hàng do ông S chuyển, bà có phản ánh vấn đề này với ông S, nhưng ông S nói mỗi lần chuyển tiền đều có phiếu chuyển sẽ đối chiếu quyết toán sau. Bà đã yêu cầu Ngân hàng Sacombank sao kê toàn bộ diễn biến số tiền bà đã nhận được từ ông S chuyển trong suốt quá trình hai bên thực hiện giao dịch mua bán. Kết quả sao kê cho thấy số tiền thực tế bà đã nhận được có sự chênh lệch so với số tiền trong sổ của ông S rất nhiều lần. Đơn cử một vài trường hợp cụ thể như sau:
- Ngày 14/3/2017 trong sổ do nguyên đơn cung cấp có sự ký nhận của bà X nhận chuyển khoản của ông S số tiền 1.530.000.000đ, nhưng trong sao kê của Ngân hàng thể hiện số tiền chuyển khoản là 1.500.000.000đ, chênh lệch 30.000.000đ.
- Ngày 16/3/2017 trong sổ do nguyên đơn cung cấp có sự ký nhận của bà X nhận chuyển khoản của ông S số tiền 1.100.000.000đ, nhưng trong sao kê của Ngân hàng thể hiện số tiền chuyển khoản là 1.000.000.000đ, chênh lệch 100.000.000đ.
- Có trường hợp đối với ngày 21/8/2017 trong sổ do nguyên đơn cung cấp có sự ký nhận của bà X nhận chuyển khoản của ông S số tiền bằng số 3.180.000.000đ, nhưng số tiền bằng chữ lại ghi (Ba tỷ tám trăm triệu đống), trong sao kê của Ngân hàng lại thể hiện 3.130.000.000đ (do C.ty TNHH Thành Bích chuyển).
Ngày 05/01/2018 trong sổ do nguyên đơn cung cấp có sự ký nhận của bà X thể hiện không biết người chuyển với số tiền 1.462.000.000 đồng nhưng trong sao kê ngân hàng thì tài khoản của bà X không có nhận số tiền này.
Qua đối chiếu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng đã xác định những lần bà X ký nhận tiền trong sổ của ông X là trước ngày bà X nhận tiền chuyển khoản của ông X tại Ngân hàng, do vậy lời trình bày của bà X cho rằng ký nhận tiền trước mới nhận chuyển khoản sau là phù hợp.
Do vụ án có nhiều mâu thuẩn, nhiều vấn đề cần được làm rỏ, lẽ ra cấp sơ thẩm cần phải xác minh, thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ nội dung vụ án như:
- Phải cho các bên tiến hành đối chất, làm rõ giữa số tiền chuyển khoản và số tiền ghi trong sổ theo từng lần giao nhận tiền, để từ đó xác định số tiền chênh lệch, nguyên nhân chênh lệch, số lượng hàng hóa bà X đã giao cho ông S, hình thức giao nhận hàng, yêu cầu ông S phải đến ngân hàng sao kê số tiền đã chuyển trả cho bà X.
Nhưng cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào sổ sách do nguyên đơn cung cấp có chữ ký của bà X xác nhận, cũng như lời trình bày của người đại diện theo ủy quyền của ông S cho rằng tiền được chuyển vào tài khoản bà X như thế nào thì tùy bà, nguyên đơn không biết, để từ đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà X phải trả lại số tiền 11.148.985.000đ là chưa có cơ sở vững chắc.
(ii) Về tố tụng: Trong những lần chuyển tiền trong đó có thể hiện ông D giám đốc C.ty TNHH Thanh Bích, bà Chi chuyển tiền cho bà X, nhưng trong sao kê có sự chênh lệch, hoặc không có chuyển, không được bà X thừa nhận. Mặc khác, tại phiên tòa phúc thẩm bà X có kê khai tất cả các quá trình hoạt động mua bán hàng hóa, thì thấy do Công ty của bà mới thành lập chưa có tiếng tâm trên thị trường nên tất cả các hoạt động mua bán hàng hóa của Công ty đều thông qua Công ty TNHH Thanh Bích do ông Trần Thanh D làm chủ, khi ông S có đối tác mua hàng (lúa gạo, lúa nếp, tấm) thì ông S liên hệ bà X, ông D để ông D trực tiếp ký hợp đồng với đối tác, bà X là người cung cấp hàng hóa cho ông D, khi ông D xuất hóa đơn cho đối tác thì giao hóa đơn còn lưu lại cho bà, để bà quyết toán với ông S.
Mặc khác tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện theo ủy quyền của ông S cũng đã xác định ông S không có thành lập công ty, không có tư cách pháp nhân, khi đặt hàng mua lúa gạo của bà X thì phải thông qua nhiều công ty đối tác khác, nhưng do bí mật kinh doanh nên ông không cung cấp thông tin những công ty này. Lời khai này hoàn toàn phù hợp với lời khai của bà X và những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy việc mua bán này, cũng như việc thanh toán tiền hàng còn có liên quan đến Công ty TNHH Thanh Bích do ông D làm đại diện, bà Chi nhưng cấp sơ thẩm không đưa ông D, Công ty TNHH Thanh Bích, bà Chi tham gia vào vụ án với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan để xác định mối quan hệ như thế nào với ông S, nguồn tiền chuyển từ đâu, hình thức mua bán hàng hóa giữa ông S, bà X, Công ty TNHH Thanh Bích, đối chất việc chuyển tiền của ông D, bà Chi với bà X, là vi phạm nghiêm trọng tố tụng, làm ảnh hưởng quyền và lợi ích của các bên.
(iii) Từ những nhận định trên cho thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng từ khi giai đoạn giải quyết vụ án, đến khi đưa vụ án ra xét xử, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, từ đó dẫn đến nội dung giải quyết vụ án bị ảnh hưởng, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, nên yêu cầu kháng cáo của Bà X là có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận, do đó cần hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số số 15/2021/DS-ST ngày 04 tháng 02 năm 2021 của Toà án nhân dân huyện PT theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, cũng như phát biểu của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là có căn cứ.
3. Bản án dân sự phúc thẩm số 60/2019/DS-PT ngày 10/5/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh về tranh chấp hợp đồng liên kết mua bán, trao đổi tài sản và thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại.
Nội dung hủy án:
Xét thấy, tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện hợp pháp của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên – Tổng công ty Lương thực M, bà Từ Thị H rút toàn bộ yêu cầu tính lãi, bị đơn bà H chấp nhận việc Công ty rút yêu cầu tính lãi. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 299 và khoản 4 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, hủy một phần và đình chỉ phần yêu cầu tính lãi của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên – Tổng công ty Lương thực M.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên về lãi suất và nghĩa vụ liên đới giữa các bị đơn ông Nguyễn Công K, bà Nguyễn Thị Thu H, ông Nguyễn Minh P, bà Nguyễn Thị Bích T, bà Nguyễn Thị T là chưa chính xác. Do đó, cần phải điều chỉnh lại.
Từ những phân tích trên, xét thấy kháng cáo của bà Nguyễn Thị Thu H là không có căn cứ chấp nhận. Xét thấy, ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2, khoản 4 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa, hủy một phần và đình chỉ một phần bản sơ thẩm là có căn cứ chấp nhận
4. Bản án dân sự phúc thẩm số 71/2019/DS-PT ngày 19/6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh về tranh chấp hợp đồng dân sự đặt cọc và hợp đồng mua bán.
Nội dung hủy án:
(i) Đối với số tiền mặt ông D đã nhận của ông T và bà M 1.635.000.000 đồng, cụ thể: Ngày 14/7/2017 nhận của bà M 590.000.000 đồng (520.000.000 đồng làm biên nhận ngày 17/6/2017 và 70.000.000 đồng do bà L giao cùng ngày), bà M đưa tiếp 50.000.000 đồng, ngày 19/7/2017 ông D có kêu xe ôm xuống nhà bà M nhận 200.000.000 đồng, ngày 28/7/2017 nhận của bà M 140.000.000 đồng, ông D nhận của Công ty 270.000.000 đồng, ông D vợ của ông D nhận của bà M tổng số tiền 185.000.000 đồng, bà O nhận của bà M 100.000.000 đồng, ông Nguyễn Văn Bé B (Bảy N) nhận của bà M 100.000.000 đồng.
Đối với số tiền chuyển khoản tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện T, tỉnh Vĩnh Long do ông D chủ tài khoản số 7305205131276 và số tiền chuyển khoản của Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín chi nhánh V - Phòng giao dịch T do ông D chủ tài khoản số 070064501729, thì ông D đã khai nhận của ông T và bà M tổng số tiền chuyển khoản 3.406.600.000 đồng, cụ thể: Ngày 04/7/2017 bà M chuyển khoản 50.000.000 đồng, ngày 05/7/2017 bà M chuyển khoản 90.000.000 đồng, ngày 05/7/2017 bà L chuyển khoản 60.000.000 đồng, ngày 06/7/2017 bà M chuyển khoản 26.600.000 đồng, ngày 06/7/2017 bà L chuyển khoản 180.000.000 đồng, ngày 10/7/2017 ông T chuyển khoản 180.000.000 đồng, ngày 11/7/2017 bà L chuyển khoản 190.000.000 đồng, ngày 11/7/2017 bà L chuyển khoản 100.000.000 đồng, ngày 13/7/2017 bà L chuyển khoản 110.000.000 đồng, ngày 14/7/2017 bà L chuyển khoản 60.000.000 đồng, ngày 17/7/2017 ông T chuyển khoản 120.000.000 đồng, ngày 19/7/2017 bà L chuyển khoản 30.000.000 đồng, ngày 20/7/2017 bà L chuyển khoản 290.000.000 đồng, ngày 21/7/2017 Công ty chuyển khoản 100.000.000 đồng, ngày 22/7/2017 Công ty chuyển khoản 100.000.000 đồng, ngày 24/7/2017 Công ty chuyển khoản 100.000.000 đồng, ngày 25/7/2017 ông T chuyển khoản 200.000.000 đồng, ngày 26/7/2017 bà L chuyển khoản 200.000.000 đồng, ngày 27/7/2017 bà L chuyển khoản 250.000.000 đồng, ngày 31/7/2017 bà L chuyển khoản 200.000.000 đồng, ngày 02/8/2017 bà L chuyển khoản 400.000.000 đồng, ngày 03/8/2017 Công ty chuyển khoản 230.000.000 đồng.
Như vậy, theo lời khai của ông D tổng số tiền ông D đã nhận của ông T và bà M là 5.041.600.000 đồng (1.635.000.000 đồng + 3.406.600.000 đồng = 5.041.600.000 đồng) nhưng có một số khoản tiền có lúc ông D khai có tính toán xong, nhưng có lúc có lời khai không tính toán nên số tiền ông D nhận và trả không khớp nhau, vấn đề này chưa được làm rõ. Tại phiên tòa, ông D và ông D thừa nhận có nhận 02 ghe lúa của ông T và bà M trị giá 300.000.000 đồng để trả tiền đặt cọc cho các hộ dân. Còn ông T khai ông đưa cho ông D số tiền 300.000.000 đồng để đặt cọc lúa, do đó không có khoảng tiền mượn riêng từ ông T. Đồng thời, bà M và ông T cũng thừa nhận việc ông D lấy 02 ghe lúa trị giá 300.000.000 đồng và ông T đưa cho ông D 300.000.000 đồng tiền đặt cọc mua lúa nhưng đã trừ hết vào tiền mua lúa. Như vậy, cấp sơ thẩm không làm rõ có hay không có số tiền đặt cọc mua lúa 300.000.000 đồng mà ông T đưa cho ông D để bù trừ nghĩa vụ là chưa giải quyết hết nội dung vụ án. Bên cạnh đó, ông D khai ngày 21/7/2017 Công ty chuyển khoản 100.000.000 đồng và ngày 22/7/2017 Công ty chuyển khoản 100.000.000 đồng cho ông D nhưng qua đối chiếu với sổ phụ tài khoản của 02 Ngân hàng ông D cung cấp thì không có chuyển 02 khoản tiền này mà chỉ có ông Phan Văn M là người của Công ty mua bán lúa với bà M chuyển khoản cho ông D nhưng bà M khai không biết việc chuyển khoản này mà cấp sơ thẩm không làm rõ. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự có khai Công ty, xe ôm, ông K và bà H nhận tiền, chuyển tiền nhưng trong hồ sơ vụ án không có lời khai của những người này và cũng không làm rõ các vấn đề này.
(ii) Đối với số lúa và số tiền bán lúa ông D khai từ ngày 04/7/2017 đến ngày 28/7/2017 ông D giao cho ông T và bà M sau khi tính toán có sự chênh lệch về số kí lô gam lúa và số tiền bán lúa mà ông D tính toán để yêu cầu ông T và bà M trả nhưng cấp sơ thẩm chưa làm rõ. Qua tính toán lại số kí lô gam lúa và số tiền bán lúa ông D khai là 1.065.540 kg với số tiền 5.214.119.500 đồng (Trong đó, từ ngày 04/7/2017 đến ngày 12/7/2017 giao 338.185 kg với số tiền 1.875.982.000 đồng, từ ngày 16/7/2017 đến ngày 28/7/2017 giao 506.606 kg với số tiền 2.787.253.160 đồng và lúa ở tỉnh Đồng Tháp giao 220.749 kg với số tiền 1.214.119.500 đồng). Nguyên đơn, bị đơn, người làm chứng khai số kí lô gam lúa, số tiền bán và ngày giao lúa không khớp với nhau nhưng chưa được đối chất làm rõ.
(iii) Ngày 04/7/2017 ông D khai ông có giao lúa cho bà M, do bà M chở 32.773 kg với số tiền 180.231.000 đồng và bà M khai bà M tự mua lúa có thuê bà M chở 32.649 kg, còn bà M khai có chở lúa cho bà M 32.773 kg do ông D kêu ghe, ông T và bà M là người trả tiền cho nông dân nữa ghe đầu khoảng 17, 18 tấn, nữa ghe còn lại do ông T và bà M trực tiếp giao tiền cho ông D và ông D giao tiền cho bà M trả cho nông dân (bút lục số 84). Bên cạnh đó, ngày 04/7/2017 bà Huỳnh Thị O khai có chở cho bà M 43.970 kg lúa do ông D là người đi thu mua lúa cho ông T, bà M và người trả tiền là ông T, bà M, bà L (bút lục số 65, 88) và bà M không trả đủ tiền cho chủ lúa nên ông D về nhà lấy 40.000.000 đồng tiền hụi cho bà M mượn để trả tiền lúa nhưng số tiền 40.000.000 đồng được ông D tính toán trừ vào phần thỏa thuận mua bán lúa khởi kiện bà M và ông T trả tiền và tại phiên tòa ông D cũng đã thừa nhận có việc cấn trừ số tiền này vào yêu cầu khởi kiện nhưng không nhớ rõ cấn trừ vào phần nào. Số tiền 40.000.000 đồng là tiền hụi mà ông D đưa cho bà M mượn để trả tiền lúa, nhưng cấp sơ thẩm chưa làm rõ mà lại chấp nhận cho ông D trừ vào tiền mua bán lúa trong vụ án này là không đúng với mối quan hệ tranh chấp.
(iv) Ngày 15/7/2017 bà M khai có chở lúa cho bà M 34.341 kg, bà M là người trực tiếp trả tiền nhưng còn nợ tiền chủ lúa không cho ghe đi nên ông D là vợ ông D về nhà lấy tiền hụi trả thế cho bà M (bút lục số 86). Bà Trần Ngọc T khai ngày 15/7/2017 có cân và chở cho ông T và bà M số tiền lúa 37.800.000 đồng, nhưng ông T và bà M không trả đủ tiền nên có mượn giấy tờ ghe của bà T thế lại và qua ngày hôm sau thì ông D đem tiền lại trả lấy lại giấy tờ ghe của bà T (bút lục số 73), cấp sơ thẩm không đối chất làm rõ tại sao ngày 15/7/2017 có việc giao lúa của 02 người làm chứng và số tiền ông T và bà M trả là bao nhiêu, còn ông D trả cho người bán lúa số tiền còn lại bao nhiêu, nhưng cấp sơ thẩm chưa làm rõ mà lại chấp nhận cho ông D yêu cầu vào tiền mua bán lúa.
(v) Ông D khởi kiện yêu cầu ông T và bà M phải trả cho ông, tiền đặt cọc mua lúa trước 110.000.000 đồng, tiền mua lúa kết sổ ngày 15/7/2017 là 117.626.000 đồng, tiền mua lúa từ ngày 16/7/2017 đến ngày 02/8/2017 là 786.805.000 đồng, với tổng số tiền là 1.014.431.000 đồng, không yêu cầu tính lãi. Trong quá trình giải quyết, ông D có cung cấp hợp đồng mua lúa giữa bên bán ông Phạm Chí H (tức Cò T) với bên mua ông D với số tiền đặt cọc 40.000.000 đồng. Ông D yêu cầu ông T và bà M trả số tiền đặt cọc của ông H 52.000.000 đồng, cấp sơ thẩm xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện này của ông D. Nhưng đối với việc ông D yêu cầu ông T và bà M trả tiền mua lúa kết sổ ngày 15/7/2017 là 117.626.000 đồng, tiền mua lúa từ ngày 16/7/2017 đến ngày 02/8/2017 là 786.805.000 đồng, tổng cộng là 904.431.000 đồng có tính số tiền đặt cọc của ông H 52.000.000 đồng, cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của ông D trừ số tiền đặt cọc 52.000.000 đồng cho ông T và bà M là giải quyết lại yêu cầu của ông D đã không được chấp nhận (bút lục số 62, 119, 198), nhưng tại phiên tòa, ông D cho rằng số tiền 52.000.000 đồng mà ông yêu cầu khởi kiện bà M, ông T là số tiền ông tự bỏ ra cho bà M mượn để đặt cọc mua lúa của các hộ dân, không phải tiền đặt cọc của ông H 52.000.000 đồng nên vấn đề này còn mâu thuẫn chưa được làm rõ.
(vi) Ngày 26/7/2017 ông D khai, bà O chở lúa cho ông T và bà M 45.354 kg với số tiền 247.179.000 đồng và 58.141 kg với số tiền 319.775.000 đồng, nhưng danh sách số lúa, số tiền thiếu mà ông D cung cấp cho Tòa án thì bà O chở ghe 45.354 kg với số tiền 247.179.000 đồng và 02 ghe 58.141 kg với số tiền 319.775.000 đồng (bút lục 11). Bà O lại khai ngày 26/7/2017 bà chở ghe lúa 45.354 kg với số tiền 247.179.000 đồng, đến ngày 27/7/2017 bà O chở 58.141 kg với số tiền 319.775.000 đồng nhưng khi xuống ghe không có tiền trả cho người bán lúa mà bà M chỉ đưa bà O 100.000.000 đồng để trả cho người bán lúa, số tiền còn lại 219.775.000 đồng đến nay bà M, ông T chưa trả (bút lục số 65), tại phiên tòa ông D, ông D và bà O thừa nhận số tiền còn lại 219.775.000 đồng hiện nay vẫn chưa trả cho các hộ dân do bà O đứng ra bảo lãnh, mà ông D lại tính vào số tiền giao lúa cho bà M, ông T để khởi kiện và buộc bà M, ông T trả số tiền 219.775.000 đồng cho ông D là chưa đảm bảo quyền, nghĩa vụ theo Điều 309, Điều 310 Bộ luật dân sự. Như vậy, cấp sơ thẩm không đưa người người bán lúa ngày 26/7/2017 cho bà O vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót.
(vii) Bà La Thị Diệu T (tức N1) có khai ngày 26/7/2017 bà có chở lúa cho bà M 35.332 kg và bà nhận tiền trực tiếp từ cò mua lúa tên là L không có nhận trực tiếp từ bà M, cấp sơ thẩm chưa làm rõ cò L là ai và ai đưa tiền cho cò L để giao cho bà T (bút lục số 132).
(viii) Biên bản hòa giải ngày 29/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện T, những người tham gia tố tụng có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của của nguyên đơn là ông Nguyễn Tiến L và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của của bị đơn là ông Lê Minh C ghi có mặt nhưng không có ký tên vào biên bản là vi phạm Điều 211 của Bộ luật Tố tụng dân sự (từ bút lục số 142 đến bút lục số 149) và biên bản đối chất ngày 20/12/2018 của Tòa án nhân dân huyện T những người tham gia đối chất có ông Nguyễn Văn T ghi có mặt nhưng không có ký tên vào biên bản đã vi phạm Điều 100 của Bộ luật Tố tụng dân sự (từ bút lục số 95 đến bút lục số 105).
(ix) Từ các nhận định và phân tích nêu trên, xét thấy án sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng về nội dung vụ án, chưa xác minh làm rõ các vấn đề trên, cấp phúc thẩm không thể bổ sung, khắc phục được. Nên chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh và đề nghị của Kiểm sát viên hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân huyện T để xét xử sơ thẩm lại cho đảm bảo đúng pháp luật, nhất là bảo đảm mọi sự kiện điều được ở hai cấp xét xử.
5. Bản án dân sự phúc thẩm số 92/2018/DS-PT ngày 07/02/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và hợp đồng vay tài sản.
Nội dung hủy án:
(Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của các đương sự, các Luật sư, Kiểm sát viên. Xét thấy, từ năm 2008 đến năm 2011 giữa bà P và bà D có quan hệ giao dịch mua bán cám, gạo với nhau. Tiền mua bán cám gạo trong năm 2008 và năm 2009 hai bên thống nhất đã thanh toán xong nên không tranh chấp. Bà P trình bày trong năm 2010 và năm 2011 bà D mua cám, gạo của bà còn nợ số tiền 105.780.000 đồng chưa trả nên khởi kiện. Bà D thừa nhận có mua cám, gạo của bà P nhưng đã trả hết chỉ còn nợ lại 1.575.000 đồng. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Tân Phước xét xử tuyên buộc bà Phan Thị D phải trả cho bà P số tiền vốn là 28.832.000 đồng, tiền lãi là 43.893.712 đồng, tổng cộng là 73.487.751 đồng là chưa có cơ sở vững chắc, bởi các căn cứ sau:
Thứ nhất: Bà P cho rằng năm 2010 bà D mua cám, gạo của bà còn nợ lại 94.062.000 đồng. Bà D thì trình bày chỉ nợ 70.213000 đồng, nhưng đã trả hết trong năm 2010 thể hiện trong “Sổ số 2” của bà D do chính bà P ghi mỗi lần trả tiền. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà P không thừa nhận chữ viết đó của mình nên bà D yêu cầu giám định chữ ký. Tại kết luận giám định số 517/GĐ-PC54 ngày 05/6/2013 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang đã xác định “Chữ viết từ dòng 1 đến dòng 15 ở trang 15 quyển sổ số 2 là đúng chữ viết của bà P” (BL109). Do đó, có cơ sở xác định từ ngày 22/01/2009 đến ngày 08/3/2011 bà P có nhận của bà Dòn 15 lần, với tổng số tiền là 83.400.000 đồng. Bà D và bà P cùng thống nhất số nợ mua bán cám gạo năm 2008 và năm 2009 đã thanh toán xong không tranh chấp. Ngày 22/01/2009 bà P nhận 4.900.000 đồng và 1.700.000 đồng (BL 192) nên được trừ ra. Như vậy, chỉ tính số tiền bà P nhận trong năm 2010 vào các ngày gồm:
- Ngày 06/3/2010 nhận 2.200.000 đồng;
- Ngày 10/2/2010 nhận 3.000.000 đồng;
- Ngày 12/2/2010 nhận 2.000.000 đồng;
- Ngày 23/2/2010 nhận 4.000.000 đồng;
- Ngày 8/3/2010 nhận 9.000.000 đồng và 10.000.000 đồng;
- Ngày 12/8/2010 nhận 9.000.000 đồng, 1.600.000 đồng và 2.000.000 đồng;
- Ngày 9/9/2010 nhận 8.000.000 đồng;
- Ngày 16/5/2010 nhận 15.000.000 đồng.
Tổng cộng, trong năm 2010 bà P có nhận của bà D số tiền là 65.800.000 đồng.
Năm 2011, bà P cho rằng bà D còn nợ mình số tiền 68.570.000 đồng. Bà D trình bày đã trả tiền cho bà P thể hiện trong các sổ số 2 và số 3.
Căn cứ “Sổ số 3” (BL 203) thể hiện ngày trong 08/3/2011 và 17/3/2011 bà P có nhận tổng cộng 57.000.000 đồng. Căn cứ “Sổ số 2” (BL192) dòng 15 từ trên xuống ghi ngày 08/3/2011 nhận 11.000.000 đồng. Cộng chung lại trong năm 2011 bà P đã nhận của bà D tổng cộng 68.000.000 đồng.
Như vậy, trong năm 2010 và 2011 bà P đã nhận của bà D tổng số tiền là 65.800.000 đồng + 68.000.000 đồng = 133.800.000 đồng.
Vụ án được giải quyết qua nhiều cấp xét xử, sau khi vụ án được giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm, ngày 06/7/2017 bà P có đơn yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết buộc bà D trả 105.780.000 đồng tiền gốc và 56.311.000 đồng tiền lãi. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 25/9/2017 bà P cũng giữ nguyên yêu cầu buộc bà D trả số tiền tiền gốc là 105.780.000 đồng. Như vậy, bà P yêu cầu bà D trả 105.780.000 đồng tiền gốc, nhưng theo như phân tích cũng như nhận định trong bản án của Tòa sơ thẩm khẳng định trong năm 2010 và năm 2011 bà D đã trả cho bà P 133.800.000 đồng. Như vậy, bà D đã trả vượt quá số tiền bà P yêu cầu, nhưng Tòa sơ thẩm vẫn tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà P là không có cơ sở. Tòa sơ thẩm cũng chưa làm rõ phần tiền bà D trả dư, bà D có yêu cầu bà P hoàn trả lại hay không. Mặt khác, theo nhận định của Quyết định giám đốc thẩm số 260/2016/DS-GĐT ngày 25/10/2016 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh thì số tiền bà P yêu cầu bà D trả chưa thống nhất. Ngày 30/8/2016 tại buổi hòa giải ở Ủy ban nhân dân xã PL thì bà P yêu cầu bà D trả nợ gốc trong năm 2010 và 2011 là 106.462.000 đồng; Các lời khai và trong quá trình tố tụng thì yêu cầu bà D trả 163.462.000 đồng; Tại phiên Tòa sơ thẩm ngày 22/7/2013 thì yêu cầu bà D trả 178.780.000 đồng và tại phiên tòa sơ thẩm ngày 25/9/2017 lại yêu cầu bà D trả 105.780.000 đồng. Điều này thể hiện bà P khởi kiện yêu cầu bà D trả tiền nợ hợp đồng mua bán, nhưng bà không có chứng cứ khẳng định bà D còn nợ bà bao nhiêu tiền nên liên tục thay đổi yêu cầu về số tiền rất khác biệt nhau. Mặt khác, căn cứ vào bảng kê tổng kết nợ bà P nộp cho Tòa án lại thể hiện tổng nợ trong năm 2010 là 70.213.000 đồng (BL43, 44), tổng nợ trong năm 2011 là 66.970.000 đồng (BL45, 46), số nợ này phù hợp với lời khai của bà D là trong năm 2010 còn nợ bà P số tiền 70.213.000 đồng và năm 2011 còn nợ số tiền 66.970.000 đồng (BL249) nhưng chưa được Tòa sơ thẩm làm rõ mà lại xác định năm 2010 bà D còn nợ bà P 28.262.000 đồng là đánh giá chứng cứ chưa toàn diện thiếu khách quan.
Thứ hai: Bà D khai ngoài các lần trả tiền như trong các sổ kể trên thì ngày 16/8/2011 bà D còn thay bà P trả 4.000.000 đồng cho bà Nguyễn Thị N, khi trả tiền bà N có viết biên nhận (BL256). Căn cứ vào biên bản lấy lời khai ngày 26/6/2013 (BL112) bà N thừa nhận bà có quan hệ mua bán cám, gạo với bà P, trong khi mua bán bà P có thiếu bà 8.000.000 đồng, bà D cũng có quan hệ mua bán với bà P, nên bà P yêu cầu bà D trả 8.000.000 đồng cho bà thay bà P, do bà D không đủ tiền nên mới trả được 4.000.000 đồng cho bà. Lời khai nhận của bà N phù hợp với lời khai và chứng cứ bà D cung cấp là năm 2011 bà D đã trả thêm cho bà P được 4.000.000 đồng thông qua bà N, nhưng Tòa sơ thẩm không chấp nhận lời khai này của bà D, không đưa bà N vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà lại tách ra giải quyết riêng khi bà D có tranh chấp với bà N là không giải quyết triệt để vụ án làm thiệt hại đến quyền và lợi ích của bà D.
Thứ ba: Trong đơn khởi kiện cũng như tại phiên tòa bà P yêu cầu bà Dòn và ông C là chồng bà D cùng có nghĩa vụ liên đới trả tiền, vì những lần mua bán cám, gạo ông C chồng bà D là người vận chuyển, có biết và tham gia giao dịch này. Tòa sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của bà P vì căn cứ vào lời khai của ông C cho rằng không có tham gia là cũng chưa có cơ sở. Bởi, thời điểm giao dịch mua bán giữa bà P và bà D diễn ra ông C và bà D là vợ chồng hợp pháp. Căn cứ Điều 27 và Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định vợ chồng phải có trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Việc mua bán cám gạo của bà D với bà P nhằm phát triển kinh tế gia đình. Do đó, yêu cầu của bà P về việc buộc ông C cùng có nghĩa vụ liên đới trả tiền cần phải đối chất làm rõ để giải quyết luôn trong vụ án chấp nhận hoặc không chấp nhận. Án sơ thẩm có nhận định về yêu cầu này của bà P, nhưng trong quyết định thì không nêu việc xử lý. Như vậy là chưa giải quyết hết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn theo qui định tại Điều 4 và Điều 188 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Thứ tư: Việc Tòa sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 để tính lãi suất trong trường hợp này là áp dụng pháp luật chưa đúng. Bởi, giao dịch mua bán cám, gạo giữa các bên diễn ra trong năm 2010 và 2011. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì trường hợp này phải áp dụng Bộ luật dân sự năm 2005 để giải quyết, do đó tiền lãi phát sinh cũng phải tính theo quy định tại Điều 476 của Bộ luật dân sự năm 2005.
Thứ năm: Án sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và vay tài sản nhưng phần nhận định và quyết định không phân định rõ số tiền nào là của hợp đồng mua bán tài sản và số tiền nào là của hợp đồng vay tài sản mà lại buộc chung số tiền phải trả là thiếu sót không thể bỏ qua trong tố tụng dân sự.
Ngoài ra Tòa sơ thẩm tính thời gian bà D phải chịu lãi xuất cũng không có căn cứ vững chắc. Bởi trong quan hệ mua bán giữa bà D và bà P không lập hợp đồng bằng văn bản, không thỏa thuận nghĩa vụ chậm trả tiền. Bà P xác định đến năm 2011 thì hai bên mới ngưng mua bán và phát sinh tranh chấp. Án sơ thẩm xác định thời điểm bà D phải chịu lãi số tiền chậm trả là ngày 08/3/2010 với số tiền là lãi phải trả là 43.893.712 đồng / 28.262.000 đồng tiến vốn trong khi nguyên đơn không xác định được móc thời gian tính lãi.
Từ cơ sở phân tích như trên xét thấy những sai phạm của cấp sơ thẩm là nghiêm trọng cả hình thức (thủ tục tố tụng) lẫn nội dung, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Để đảm bảo quyền và lợi ích của các bên đương sự được xem xét giải quyết đúng theo trình tự thủ tục tố tụng do Bộ luật tố tụng dân sự quy định, cần hủy bản án dân sự sơ thẩm số 78/2017/DS-ST ngày 27/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tân Phước, giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân huyện Tân Phước xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.
Do hủy án sơ thẩm để xét xử lại nên Hội đồng xét xử chưa xét đến yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Ý kiến đề nghị của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Ý kiến đề nghị của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cũng không có căn cứ vững chắc nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
6. Bản án dân sự phúc thẩm số 127/2021/DS-PT ngày 21/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản.
Nội dung sửa án:
Đối với việc Công ty A không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ để chứng minh hoạt động kinh doanh mua bán giữa Công ty A với bà Lại Thị Ánh D, chứng minh được số lượng hàng hóa kê khai theo thứ tự thời gian mua hàng, các số liệu hàng hóa nhập kho, việc theo dõi tài sản của Công ty cũng như không chứng minh được toàn bộ số lượng cà phê 9.500 kg cà phê nhân xô mà ông M mua của bà D là tài sản của Công ty A, Hội đồng xét xử nhận thấy: Việc sau khi ông M, bà T nhận cà phê của bà D gửi nhưng không thực hiện các thủ tục nhập kho của Công ty là lỗi của cá nhân ông M, bà T đối với Công ty A. Còn Công ty A phải chịu trách nhiệm về quyền và nghĩa vụ đối với giao dịch dân sự do ông Trần Văn M là người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân theo quy định tại khoản 1 Điều 87 Bộ luật Dân sự.
Từ những phân tích, nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy rằng, trách nhiệm thanh toán số tiền 205.530.000 đồng cho bà Lại Thị Ánh D là thuộc về Công ty TNHH thương mại A, việc bản án cấp sơ thẩm xác định vợ chồng ông Trần Văn M, bà Nguyễn Thị T có trách nhiệm thanh toán cho bà Lại Thị Ánh D số tiền 205.530.000 đồng là đánh giá chứng cứ chưa chính xác, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn. Do vậy, cần chấp nhận một phần kháng cáo của ông Trần Văn M (đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị T), sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 182/2021/DS – ST ngày 28/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc theo hướng: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lại Thị Ánh D về việc buộc Công ty TNHH thương mại A có trách nhiệm trả cho bà Lại Thị Ánh D số tiền 205.530.000 đồng.
7. Bản án dân sự phúc thẩm số 190/2017/DS-PT ngày 20/12/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng đầu tư trồng và mua bán mía nguyên liệu.
Nội dung sửa án:
Xét kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của bị đơn thì thấy, bị đơn ông Lê Quang N, sinh năm 1952, đã 65 tuổi, theo Điều 2 Luật Người cao tuổi quy định: “…là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên…” nên ông N thuộc diện người cao tuổi. Theo Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội quy định người cao tuổi được miễn án phí, trong giai đoạn xét xử phúc thẩm thì ông N có đơn yêu cầu. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông N, sửa án sơ thẩm về án phí do có tình tiết m i.
Đề nghị của Kiểm sát viên có căn cứ như đã phân tích nêu trên.
8. Bản án dân sự phúc thẩm số 34/2019/DS-PT ngày 18/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng vay tài sản và mua bán tài sản.
Nội dung sửa án:
Xét kháng cáo của ông N đối với số tiền nợ vay ngày 03/3/2012 (ÂL) 100.000.000 đồng và tiền và tiền hợp đồng mua bán mía 44.595.000 đồng. Nhận thấy, đối với số tiền này thì phía ông N không thừa nhận việc vay tiền của ông M, cũng như tiền hùn mua mía theo đơn khởi kiện của ông M, mà ông N chỉ thừa nhận trong khoảng thời gian tháng 12/2011 giữa ông với ông M có cùng nhau mua mía, ông đã ứng tiền của ông M để mua mía và hai bên đã thanh toán xong số tiền này.
Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện về số tiền nợ vay ngày 03/3/2012 (ÂL) 100.000.000 đồng và tiền hợp đồng mua bán mía 44.595.000 đồng, thì ông M có cung cấp hai quyển sổ, một quyển sổ học sinh ghi “ 3 N” và một quyển sổ ghi “sổ tiền mượn”; một đơn xin xác nhận do Công ty V xác nhận từ ngày 29- 11-2013 đến ngày 14-01-2014 công ty có mua mía của ông N.
Xét chứng cứ do ông M cung cấp nhận thấy hai quyển sổ là do phía gia đình của ông M ghi, cụ thể “Sổ mượn tiền” chỉ ghi tên những người mượn nợ tiền, không có trang nào thể hiện chữ ký tên của ông N trong sổ theo dõi tiền mượn, sổ mượn tiền ghi “26.12.11 3 N 100.000.000; 3.3.12 N 100.000.000”; quyển sổ học sinh ghi “3 N”, tại trang thứ 18 ghi: “25.12.11 Âl 3 Hoà mượn 40.000.000; 26.12.11 Âl 3 N mượn 60.000.000, 26.9.12 Âl đốn lãi đến 26.9.12 - 10 tháng; 26.12.11 Âl 3 N tiền lãi 310 100.000.000; 3.3.12 Âl 3 N tiền lãi 310 100.000.000, còn thiếu tiền lải 21.000.000 đốn lãi R; 26.9.12 Âl 100.000.000, 3.12.12 Âl 100.000.000”, như vậy quyển sổ do phía gia đình ông M tự ghi và không có chữ ký tên của ông N, phía ông N không thừa nhận, nên chưa đủ căn cứ để buộc ông N phải trả cho ông M số tiền nợ vay này.
Đối với số tiền mua mía thì theo đơn khởi kiện ông M cho rằng vào tháng 11/2012 (ÂL), ông M giao cho ông N số tiền là 44.595.000 đồng để mua mía, nhưng phía ông N chưa thanh toán lại cho ông. Nhận thấy quyển sổ học sinh do phía gia đình của ông M ghi thể hiện từ ngày 15-9-2009 đến ngày 301- 02-2013 thì ông N ứng tiền và có ghi chữ R. Tại trang thứ 30 đến trang thứ 32 ghi vô vụ 2013-2014 từ ngày 19-10 đến ngày 13-12 ghi 3 N còn thiếu 11.595.000, ứng thêm 33.000.000, tổng cộng 44.595.000. Như vậy quyển sổ theo dõi của gia đình ông M ghi về số tiền do ông N tạm ứng lại không đúng về thời gian ông N ứng tiền của ông M để mua mía theo đơn khởi kiện xác định là tháng 11/2012 (ÂL). Ngược lại sổ theo dõi ghi trong khoảng thời gian này thì ghi chữ R (tức thanh toán xong). Do quyển sổ không có chữ ký của ông N và ông N không thừa nhận có nhận khoản tiền 44.595.000 đồng này, nên không có căn cứ để buộc ông N phải trả cho ông M số tiền nợ hợp đồng mua mía này.
Với những phân tích nêu trên, nhận thấy án sơ thẩm buộc ông N có trách nhiệm trả cho ông M số tiền nợ vay 100.000.000 đồng vào ngày 03/3/2012 (ÂL) và tiền hợp đồng mua bán mía 44.595.000 đồng là chưa đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bị đơn. Do vậy, kháng cáo của ông N có cơ sở để được chấp nhận.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị đơn là có cơ sở được chấp nhận, cần phải sửa lại án sơ thẩm là chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông M về việc buộc ông N trả tiền nợ vay ngày 26/12/2011(ÂL) là 100.000.000 đồng. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông M về việc buộc ông N trả tiền nợ vay ngày 03/3/2012 (ÂL) là 100.000.000 đồng và tiền trong hợp đồng mua bán mía là 44.595.000 đồng.
Do án sơ thẩm bị cải sửa, nên về án phí cũng phải sửa lại theo đúng quy định của pháp luật, cụ thể:
- Ông M phải chịu là 144.595.000 đồng x 5% = 7.229.750đồng.
- Ông N phải chịu là 100.000.000 đồng x 5% = 5.000.000đồng.
9. Bản án dân sự phúc thẩm số 125/2021/DS-PT ngày 20/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản.
Nội dung sửa án:
Đối với việc Công ty TNHH TM A1 không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ để chứng minh hoạt động kinh doanh mua bán giữa Công Ty A1 với ông D, bà T; chứng minh số lượng hàng hóa kê khai theo thứ tự thời gian mua hàng; các số liệu hàng hóa nhập kho; việc theo dõi tài sản của Công ty cũng như không chứng minh được toàn bộ số lượng cà phê nhân xô mà ông M mua của bà T, ông D là tài sản của Công Ty A1; HĐXX nhận thấy: Việc sau khi ông M, bà T1 nhận cà phê của bà T, ông D gửi nhưng không thực hiện các thủ tục nhập kho của Công ty là lỗi của cá nhân ông M, bà T1 đối với Công ty TNHH TM A1. Còn Công ty TNHH TM A1 phải chịu trách nhiệm về quyền và nghĩa vụ đối với giao dịch dân sự do ông Trần Văn M là người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân theo quy định tại khoản 1 Điều 87 Bộ luật Dân sự và khoản 3 Điều 200 Luật doanh nghiệp. Do đó, Công ty TNHH TM A1 có trách nhiệm phải trả cho ông D, bà T số tiền là 126.000.000 đồng. Việc Bản án sơ thẩm xác định trách nhiệm trả nợ thuộc về cá nhân ông M, bà T1 là không đúng. Do vậy, cần chấp nhận một phần kháng cáo của ông Trần Văn M, bà Nguyễn Thị T1 để sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 181/2021/DSST ngày 28/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh ĐắkLắk theo hướng buộc Công ty TNHH TM A1 có trách nhiệm trả cho bà Trương Thị T, ông Triệu Thành D số tiền 126.000.000 đồng là phù hợp.
10. Bản án dân sự phúc thẩm số 37/2024/DS-PT ngày 28/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, kiện đòi tài sản.
Nội dung sửa án:
Xét thấy: Bà N tự cập nhật số liệu từ ngày 04-11-2015 đến ngày 21-12- 2015, bà H ứng, chốt bán 4000 kg, đã nhập = 4098 kg1; từ ngày 18-12-2015 đến ngày 21-12-2015 bà Huyến ứng, chốt bán 10.000 kg, đã nhập 10.465kg2 cà phê, cộng 1 và 2 dư 563 kg cà phê; từ ngày 22-12-2015 đến ngày 27-12-2015, bà H ứng chốt bán 06 lần = 6.000 kg; trong đó ngày 27-12-2015 chốt 02 lần mỗi lần 1000 kg, đơn giá 33.700 đồng; đã nhập 5.996,6 kg + 563kg cà phê dư trừ đi 6000kg chốt bán, bà H còn nhập dư cho bà N là 559,6 kg cà phê (bl 30,31). Nếu bà H có ứng số tiền 337.000.000 đồng ghi rõ bằng chữ “ba trăm ba bảy triệu đồng chẵn” thì bà H nhập thiếu 8.440,4 kg cà phê chứ không phải nhập dư cho bà N 559,6 kg cà phê. Mặt khác, lượng cà phê chốt bán 1000 kg x33.700 đồng nhưng ghi số tiền 337.000.000 đồng ghi rõ bằng chữ “ba trăm ba bảy triệu đồng chẵn” là không đúng. Ngoài ra Biên bản lấy lời khai đối chất ngày 27-9-2019 (bl 48 đến 51) bà N xác định các lần mua bán trước ngày 06-11- 2016 đã được hai bên thanh toán xong không còn nợ nần gì nhau.
Do đó không có căn cứ để chấp nhận việc bà N yêu cầu bà H trả 9000 kg cà phê bị nhầm lẫn. Cấp sơ thẩm đánh giá chứng không đầy đủ nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N là không đúng và không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà N; đồng thời có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà H, sửa án sơ thẩm. Bác yêu cầu của bà N đòi bà H trả số tiền 60.310.000đồng và 9000 kg cà phê nhân.