Thời điểm xem xét xử lý rủi ro là khi nào? Các trường hợp nào được xem xét xử lý rủi ro?

Thời điểm xem xét xử lý rủi ro là khi nào? Các trường hợp nào được xem xét xử lý rủi ro?

Thời điểm xem xét xử lý rủi ro là khi nào? Các trường hợp nào được xem xét xử lý rủi ro?

Luật sư cho tôi hỏi: Do ảnh hưởng của bão lớn, Công ty của tôi là một doanh nghiệp nhỏ được Quỹ bảo lãnh tín dụng tỉnh B bảo lãnh vay vốn tại Ngân hàng Y đã bị thiệt hại nặng, mất khả năng trả nợ. Quỹ bảo lãnh tín dụng đã phải trả thay khoản vay, nhưng sau đó không thu hồi được tiền vì Công ty đã giải thể. Vậy, trong trường hợp như Công ty tôi bị thiệt hại do bão lũ, thời điểm nào Quỹ bảo lãnh tín dụng được xem xét xử lý rủi ro vậy ạ? Và những trường hợp nào thì được phép xử lý rủi ro theo quy định? Mong luật sư giải đáp giúp tôi, xin cảm ơn.

MỤC LỤC

1. Thời điểm xem xét xử lý rủi ro là khi nào?

2. Các trường hợp nào được xem xét xử lý rủi ro?

 

Trả lời:

1. Thời điểm xem xét xử lý rủi ro là khi nào?

Nhằm đảm bảo quá trình xử lý rủi ro được thực hiện đúng thời điểm, đúng thẩm quyền và có cơ sở pháp lý rõ ràng, tránh tình trạng chậm trễ hoặc xử lý tùy tiện, thiếu thống nhất, Điều 5 Thông tư số 57/2019/TT-BTC ngày 26/8/2019 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn cơ chế xử lý rủi ro của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đã nêu rõ về thời điểm xem xét xử lý rủi ro như sau:

Điều 5. Thời điểm xem xét xử lý rủi ro

1. Đối với việc xem xét xử lý rủi ro thuộc thẩm quyền xử lý của Quỹ bảo lãnh tín dụng: Thời điểm xem xét xử lý rủi ro được thực hiện sau khi Quỹ bảo lãnh tín dụng nhận được đầy đủ hồ sơ đề nghị xử lý rủi ro của khách hàng hoặc khi xảy ra các trường hợp rủi ro mà Quỹ bảo lãnh tín dụng phải xử lý tài sản bảo đảm.

2. Đối với việc xem xét xử lý rủi ro thuộc thẩm quyền xử lý của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh): Thời điểm xem xét xử lý rủi ro được thực hiện theo từng đợt, tối thiểu sáu (06) tháng/lần trên cơ sở đề nghị của Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng.”

Thứ nhất, đối với trường hợp xem xét xử lý rủi ro thuộc thẩm quyền xử lý của Quỹ bảo lãnh tín dụng, thời điểm xem xét xử lý rủi ro là sau khi Quỹ bảo lãnh tín dụng nhận được đầy đủ hồ sơ đề nghị xử lý rủi ro của khách hàng hoặc là thời điểm khi xảy ra các trường hợp rủi ro mà Quỹ bảo lãnh tín dụng phải xử lý tài sản bảo đảm. Điều này cho thấy pháp luật đặt trọng tâm vào yếu tố đầy đủ hồ sơ và căn cứ thực tế, bảo đảm rằng việc xem xét xử lý chỉ được tiến hành khi có đầy đủ thông tin, tài liệu chứng minh rõ nguyên nhân và mức độ thiệt hại. Đồng thời, việc cho phép Quỹ bảo lãnh tín dụng chủ động xem xét xử lý rủi ro khi phải xử lý tài sản bảo đảm cũng giúp tăng tính linh hoạt, kịp thời trong việc thu hồi nợ và hạn chế tổn thất cho Quỹ bảo lĩnh tín dụng.

Thứ hai, đối với trường hợp xem xét xử lý rủi ro thuộc thẩm quyền xử lý của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thì thời điểm xem xét xử lý rủi ro sẽ được thực hiện theo từng đợt, tối thiểu là 06 tháng/lần dựa trên cơ sở đề nghị của Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng. Cách quy định này nhằm đảm bảo quá trình xử lý ở cấp cao hơn được tiến hành có kế hoạch, có sự tổng hợp và đánh giá toàn diện, tránh tình trạng xét duyệt nhỏ lẻ hay thiếu đồng bộ. Đồng thời, việc quy định chu kỳ tối thiểu cũng góp phần duy trì tính minh bạch, kiểm soát chặt chẽ và thống nhất trong công tác quản lý rủi ro trên phạm vi địa phương.

Nhìn chung, quy định này thể hiện tư duy quản lý rủi ro khoa học và có hệ thống. Việc xác định rõ thời điểm xem xét theo từng cấp thẩm quyền không chỉ giúp phân định trách nhiệm rõ ràng giữa Quỹ bảo lãnh tín dụng và cơ quan quản lý nhà nước, mà còn đảm bảo quá trình xử lý diễn ra kịp thời, hiệu quả, góp phần bảo toàn nguồn vốn, nâng cao uy tín và năng lực hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.

2. Các trường hợp nào được xem xét xử lý rủi ro?

Căn cứ Điều 7 Thông tư số 57/2019/TT-BTC ngày 26/8/2019 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn cơ chế xử lý rủi ro của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đã ghi nhận cụ thể những trường hợp được xem xét xử lý rủi ro đối với các khoản nợ của khách hàng như sau:

Điều 7. Các trường hợp được xem xét xử lý rủi ro

1. Khách hàng bị thiệt hại về tài chính, tài sản do thiên tai, mất mùa, dịch bệnh, hỏa hoạn, rủi ro chính trị, chiến tranh gây ra ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn đến khách hàng không trả được nợ (gốc, lãi) đúng hạn theo Hợp đồng nhận nợ bắt buộc đã ký.

2. Khách hàng bị phá sản theo quy định của pháp luật hiện hành.

3. Nhà nước thay đổi chính sách làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, dẫn đến khách hàng không trả được nợ (gốc, lãi) đúng hạn theo Hợp đồng nhận nợ bắt buộc đã ký.

4. Khách hàng gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan khác ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn đến khách hàng không trả được nợ (gốc, lãi) đúng hạn theo Hợp đồng nhận nợ bắt buộc đã ký.

5. Khách hàng có khoản nợ xấu (từ nhóm 3 đến nhóm 5) theo kết quả phân loại nợ theo quy định tại khoản 1 Điều 36 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP của Chính phủ.”

Dẫn chiếu đến khoản 1 Điều 36 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP của Chính chủ ngày 08/3/2018 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau:

Điều 36. Phân loại nợ, trích lập quỹ dự phòng rủi ro bảo lãnh

1. Phân loại nợ: Quỹ bảo lãnh tín dụng thực hiện phân loại nợ đối với các khoản đã trả nợ thay cho bên được bảo lãnh (khách hàng phải nhận nợ bắt buộc) theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng.”

Điều khoản trên có vai trò quan trọng trong việc xác định ranh giới và căn cứ pháp lý rõ ràng để đảm bảo việc xử lý rủi ro được tiến hành đúng đối tượng, đúng nguyên nhân và đúng bản chất của thiệt hại, tránh tình trạng lợi dụng chính sách hoặc áp dụng tùy tiện. Cụ thể, các trường hợp này gồm:

- Thứ nhất, là trường hợp mà khách hàng bị thiệt hại về tài chính, tài sản do thiên tai, mất mùa, dịch bệnh, hỏa hoạn, rủi ro chính trị, chiến tranh gây ra làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn đến khách hàng không trả được nợ cả gốc và lãi đúng hạn theo Hợp đồng nhận nợ bắt buộc đã ký;

- Thứ hai, là khi khách hàng bị phá sản theo quy định pháp luật hiện hành;

- Thứ ba, là khi Nhà nước thay đổi chính sách làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, dẫn đến khách hàng không trả được nợ cả gốc, lãi đúng hạn theo Hợp đồng nhận nợ bắt buộc đã ký.

Có thể thấy, đây là những trường hợp xuất phát từ nguyên nhân khách quan ngoài ý chí của doanh nghiệp, khiến họ không còn khả năng trả nợ đúng hạn. Việc đưa những trường hợp này là căn cứ để xem xét rủi ro thể hiện tính nhân văn và chia sẻ trách nhiệm của Nhà nước trong việc hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa vượt qua khó khăn bất khả kháng. Ngoài ra, còn có các trường hợp là:

- Khi khách hàng gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan khác ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn đến khách hàng không trả được nợ cả gốc, lãi đúng hạn theo Hợp đồng nhận nợ bắt buộc đã ký;

- Hay là khi khách hàng có khoản nợ xấu (từ nhóm 3 đến nhóm 5) theo kết quả phân loại nợ theo quy định tại khoản 1 Điều 36 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP của Chính chủ ngày 08/3/2018 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Hai trường hợp này mang ý nghĩa thực tiễn và kỹ thuật trong công tác quản lý rủi ro. Trường hợp “nguyên nhân khách quan khác” giúp mở rộng phạm vi áp dụng, bảo đảm chính sách xử lý rủi ro không cứng nhắc, có thể bao quát các tình huống phát sinh thực tế. Trong khi đó, việc xem xét đối với các khoản nợ xấu thể hiện cách tiếp cận định lượng, hiện đại và minh bạch, gắn liền với cơ chế phân loại nợ và kiểm soát tài chính theo chuẩn mực ngân hàng. Điều này giúp Quỹ bảo lãnh tín dụng chủ động nhận diện, phòng ngừa và xử lý rủi ro kịp thời, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý vốn bảo lãnh.

Như vậy, việc phân định các nhóm trường hợp như trên cho thấy pháp luật không chỉ chú trọng yếu tố nhân đạo và chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp, mà còn nhấn mạnh kỷ luật tài chính và trách nhiệm quản trị rủi ro của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Đây là sự kết hợp hài hòa giữa mục tiêu hỗ trợ phát triển kinh tế và bảo toàn nguồn lực công, bảo đảm cơ chế bảo lãnh tín dụng vận hành an toàn, bền vững.

Trân trọng./.

Góp ý