Thẩm quyền và hình thức xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh được quy định như thế nào?

Thẩm quyền và hình thức xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh được quy định như thế nào?

Thẩm quyền và hình thức xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh được quy định như thế nào?

Luật sư cho tôi hỏi: Tôi là chủ một cửa hàng bán lẻ, gần đây phát hiện có một số doanh nghiệp lớn trong khu vực thỏa thuận định giá chung, gây ảnh hưởng đến việc kinh doanh của chúng tôi và các tiểu thương khác. Chúng tôi không biết phải báo cáo ở đâu, ai có thẩm quyền xử lý và hình thức xử lý vi phạm đối với các doanh nghiệp này như thế nào? Mong luật sư giải đáp giúp tôi, xin cảm ơn.

MỤC LỤC

1. Cạnh tranh là gì?

2. Thẩm quyền và hình thức xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh được quy định như thế nào?

 

Trả lời:

1. Cạnh tranh là gì?

Cạnh tranh là khái niệm rất rộng, xuất hiện trong hầu hết các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, từ cuộc sống hằng ngày đến các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, thể thao,... và có khá nhiều định nghĩa, cách hiểu khác nhau về cạnh tranh.

K. Marx đưa ra khái niệm “Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Nghiên cứu sâu về sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa Marx đã phát hiện ra quy luật cơ bản của cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân, và qua đó hình thành nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên những chênh lệch giữa giá cả chi phí sản xuất và khả năng có thể bán hàng hoá dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu được lợi nhuận.

Theo từ điển kinh doanh (xuất bản năm 1992 ở Anh) thì khái niệm cạnh tranh trong cơ chế thị trường được định nghĩa là “Sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm giành tài nguyên sản xuất cùng một loại hàng hoá về phía mình”.

Theo Từ điển Bách khoa Việt nam (tập 1) Cạnh tranh (trong kinh doanh) là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung cầu, nhằm dành các điều kiện sản xuất , tiêu thụ thị trường có lợi nhất.

Như vậy, có thể hiểu cạnh tranh ở 03 góc độ:

Thứ nhất, cách hiểu theo nghĩa thông thường thì cạnh tranh là một sự kiện, một cuộc đua, theo đó các đối thủ ganh đua với nhau để dành phần hơn hoặc ưu thế tuyệt đối về phía mình.

Thứ hai, theo gốc độ kinh tế thì cạnh tranh được hiểu là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường nhằm mục đích là thu hút về phía mình ngày càng nhiều khách hàng, thị phần.

Thứ ba, cạnh tranh dưới góc độ pháp lý. Hiện nay, không có định nghĩa hay khái niệm thống nhất về cạnh tranh. Tuy nhiên, thông qua các quy định của pháp luật cạnh tranh, ta có thể hiểu cạnh tranh là những hành vi nhằm mục đích chiếm ưu thế về phía mình giữa các đối thủ.

Trong nền kinh tế thị trường, nếu quan hệ cung cầu là cốt vật chất, giá cả là diện mạo thì cạnh tranh là linh hồn của thị trường. Nhờ có cạnh tranh, với sự thay đổi liên tục về nhu cầu và khát vọng của con người mà nền kinh tế thị trường đã đem lại những bước phát triển nhảy vọt mà loài người chưa từng có được trong các hình thái kinh tế trước đó. Khát khao tối đa hóa lợi nhuận của nhà kinh doanh sẽ mau chóng trở thành động lực thúc đẩy họ sáng tạo, đổi mới không ngừng, làm cho cạnh tranh trở thành động lực của sự phát triển.

2. Thẩm quyền và hình thức xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh được quy định như thế nào?

Nhằm đảm bảo trật tự trên thị trường và kịp thời xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, Điều 113 Luật Cạnh tranh 2018 đã quy định rõ về thẩm quyền cũng như hình thức xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh như sau:

Điều 113. Thẩm quyền và hình thức xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh

1. Trường hợp cơ quan nhà nước thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 Điều 8 của Luật này, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có trách nhiệm yêu cầu cơ quan nhà nước chấm dứt hành vi vi phạm và khắc phục hậu quả. Cơ quan nhà nước được yêu cầu phải chấm dứt hành vi vi phạm, khắc phục hậu quả và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

2. Trường hợp tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi bị cấm quy định tại khoản 2 Điều 8 của Luật này, Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh có các thẩm quyền sau đây:

a) Phạt cảnh cáo;

b) Phạt tiền quy định tại khoản 4 Điều 111 của Luật này;

c) Áp dụng biện pháp quy định tại điểm b, điểm c khoản 3 và điểm đ, điểm e khoản 4 Điều 110 của Luật này;

d) Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 110 của Luật này.

3. Đối với hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh có các thẩm quyền sau đây:

a) Phạt cảnh cáo;

b) Phạt tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 111 của Luật này;

c) Áp dụng biện pháp theo quy định tại điểm b, điểm c khoản 3 và các điểm a, b, d, đ, e khoản 4 Điều 110 của Luật này;

d) Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp quy định tại điểm a khoản 3 và điểm a khoản 4 Điều 110 của Luật này.

4. Đối với hành vi vi phạm quy định về tập trung kinh tế, Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có các thẩm quyền sau đây:

a) Phạt cảnh cáo;

b) Phạt tiền quy định tại khoản 2 Điều 111 của Luật này;

c) Áp dụng biện pháp quy định tại điểm b, điểm c khoản 3 và các điểm a, c, d, e khoản 4 Điều 110 của Luật này;

d) Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp quy định tại điểm a khoản 3 và điểm a khoản 4 Điều 110 của Luật này.

5. Đối với hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành mạnh và các hành vi vi phạm khác theo quy định của Luật này không thuộc trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này, Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có các thẩm quyền sau đây:

a) Phạt cảnh cáo;

b) Phạt tiền quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 111 của Luật này;

c) Áp dụng biện pháp quy định tại điểm b, điểm c khoản 3 và điểm đ, điểm e khoản 4 Điều 110 của Luật này;

d) Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 110 của Luật này.

6. Các hành vi quy định tại khoản 7 Điều 45 của Luật này được xử lý theo quy định của pháp luật khác có liên quan.”

Dẫn chiếu đến Điều 8; khoản 3, 4 Điều 110; khoản 1, 2, 3, 4 Điều 111 và khoản 7 Điều 45 Luật Cạnh tranh quy định như sau:

Điều 8. Các hành vi bị nghiêm cấm có liên quan đến cạnh tranh

1. Cơ quan nhà nước thực hiện hành vi gây cản trở cạnh tranh trên thị trường sau đây:

a) Ép buộc, yêu cầu, khuyến nghị doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hiện hoặc không thực hiện việc sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng, sử dụng dịch vụ cụ thể hoặc mua, bán hàng hóa, cung ứng, sử dụng dịch vụ với doanh nghiệp cụ thể, trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước hoặc trong trường hợp khẩn cấp theo quy định của pháp luật;

b) Phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp;

c) Ép buộc, yêu cầu, khuyến nghị các hiệp hội ngành, nghề, tổ chức xã hội - nghề nghiệp khác hoặc các doanh nghiệp liên kết với nhau nhằm hạn chế cạnh tranh trên thị trường;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để can thiệp trái pháp luật vào hoạt động cạnh tranh.

2. Tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, vận động, kêu gọi, ép buộc hoặc tổ chức để doanh nghiệp thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh.”

Điều 110. Nguyên tắc xử lý vi phạm, hình thức xử lý vi phạm và biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm pháp luật về cạnh tranh

3. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về cạnh tranh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung sau đây:

a) Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc văn bản tương đương, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề;

b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh;

c) Tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.

4. Ngoài các hình thức xử phạt theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về cạnh tranh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:

a) Cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền;

b) Loại bỏ điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng, thỏa thuận hoặc giao dịch kinh doanh;

c) Chia, tách, bán lại một phần hoặc toàn bộ vốn góp, tài sản của doanh nghiệp hình thành sau tập trung kinh tế;

d) Chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp hình thành sau tập trung kinh tế;

đ) Cải chính công khai;

e) Các biện pháp cần thiết khác để khắc phục tác động của hành vi vi phạm.”

Điều 111. Phạt tiền đối với hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh

1. Mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền là 10% tổng doanh thu của doanh nghiệp có hành vi vi phạm trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm, nhưng thấp hơn mức phạt tiền thấp nhất đối với các hành vi vi phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự.

2. Mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm quy định về tập trung kinh tế là 05% tổng doanh thu của doanh nghiệp vi phạm trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm.

3. Mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành mạnh là 2.000.000.000 đồng.

4. Mức phạt tiền tối đa đối với hành vi khác vi phạm quy định của Luật này là 200.000.000 đồng.”

Điều 45. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm

7. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác bị cấm theo quy định của luật khác.”

Như vậy, pháp luật cạnh tranh đã xác lập một cơ chế xử lý vi phạm chặt chẽ, phân định rõ thẩm quyền của từng chủ thể có trách nhiệm. Tùy vào hành vi vi phạm cụ thể thì thẩm quyền xử lý sẽ thuộc về Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia; Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia hay Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh. Sự phân định này giúp bảo đảm tính minh bạch, khách quan và hiệu quả trong việc áp dụng các hình thức xử phạt chủ yếu như cảnh cáo, phạt tiền, áp dụng hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả. Đồng thời, quy định còn thể hiện sự toàn diện khi điều chỉnh cả hành vi vi phạm từ phía Cơ quan nhà nước lẫn các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động kinh doanh. Ý nghĩa quan trọng nhất là góp phần duy trì kỷ cương pháp luật, củng cố niềm tin của doanh nghiệp và xã hội vào một môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh, thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý