
Nguyên tắc xử lý rủi ro của Quỹ bảo lãnh tín dụng được quy định như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Một doanh nghiệp trong khu công nghiệp được Quỹ bảo lãnh tín dụng đứng ra bảo lãnh để vay vốn ngân hàng đầu tư mở rộng sản xuất. Sau một thời gian, doanh nghiệp gặp khủng hoảng tài chính và mất khả năng thanh toán, buộc Quỹ phải trả nợ thay. Hiện nay, Quỹ đang triển khai các biện pháp thu hồi khoản nợ đã trả thay và xử lý rủi ro phát sinh. Tôi thắc mắc, nguyên tắc xử lý rủi ro mà Quỹ bảo lãnh tín dụng phải tuân thủ trong trường hợp này được pháp luật quy định cụ thể ra sao? Mong luật sư giải đáp thắc mắc của tôi, xin cảm ơn.
MỤC LỤC
2. Nguyên tắc xử lý rủi ro của Quỹ bảo lãnh tín dụng được quy định như thế nào?
Trả lời:
1. Xử lý rủi ro là gì?
Trong hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, rủi ro là yếu tố không thể tránh khỏi, đặc biệt khi Quỹ bảo lãnh tín dụng phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh nhưng không thu hồi được khoản nợ đã trả thay. Để bảo đảm tính minh bạch, thống nhất và hiệu quả trong việc quản lý, khoản 7 Điều 3 Thông tư số 57/2019/TT-BTC ngày 26/8/2019 của Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn cơ chế xử lý rủi ro của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (sau đây gọi tắt là “Thông tư số 57/2019/TT-BTC”) đã đưa ra khái niệm cụ thể về “xử lý rủi ro”. Cụ thể:
“Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Thông tư này, ngoài các thuật ngữ đã được quy định tại Nghị định số 34/2018/NĐ-CP của Chính phủ, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
7. Xử lý rủi ro là việc áp dụng các biện pháp xử lý đối với các khoản nợ của khách hàng bị rủi ro dẫn đến Quỹ bảo lãnh tín dụng không thể thu hồi đầy đủ, đúng hạn nợ (gốc, lãi).”
Như vậy, xử lý rủi ro được hiểu là việc áp dụng các biện pháp xử lý đối với các khoản nợ của khách hàng bị rủi ro, dẫn đến Quỹ bảo lãnh tín dụng không thể thu hồi đầy đủ, đúng hạn nợ cả gốc và lãi. Quy định này không chỉ mang tính định nghĩa thuật ngữ mà còn xác lập rõ phạm vi, bản chất và ý nghĩa pháp lý của hoạt động xử lý rủi ro. Trước hết, khái niệm thể hiện tính chủ động của Quỹ bảo lãnh tín dụng trong việc ứng phó với những tình huống phát sinh ngoài dự kiến, nhằm bảo toàn nguồn vốn và ổn định tài chính. Việc “áp dụng các biện pháp xử lý” cho thấy quá trình này không dừng lại ở việc ghi nhận tổn thất, mà bao gồm các hành động cụ thể như cơ cấu lại khoản nợ, khoanh nợ, xóa nợ hay bán nợ theo đúng quy định pháp luật.
Qua đó, thấy được rằng sự ghi nhận này đã đưa ra một khái niệm nền tảng, giúp định hình toàn bộ cơ chế xử lý rủi ro của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Đây không chỉ là công cụ pháp lý để Quỹ bảo lãnh tín dụng ứng phó với những khoản nợ khó thu hồi, mà còn thể hiện tư duy quản trị rủi ro hiện đại, hướng đến việc bảo vệ an toàn tài chính, duy trì tính minh bạch và góp phần phát triển bền vững hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
2. Nguyên tắc xử lý rủi ro của Quỹ bảo lãnh tín dụng được quy định như thế nào?
Hoạt động bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là công cụ tài chính quan trọng nhằm hỗ trợ nhóm doanh nghiệp này tiếp cận nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện bảo lãnh, Quỹ bảo lãnh tín dụng có thể đối mặt với nhiều rủi ro khi phải thực hiện nghĩa vụ trả thay nhưng không thu hồi được nợ. Để đảm bảo hoạt động này được quản lý chặt chẽ, hạn chế thiệt hại và duy trì tính bền vững, pháp luật đã nêu rõ nguyên tắc xử lý rủi ro tại Điều 4 Thông tư số 57/2019/TT-BTC như sau:
“Điều 4. Nguyên tắc xử lý rủi ro của Quỹ bảo lãnh tín dụng
1. Việc xử lý rủi ro của Quỹ bảo lãnh tín dụng phải đảm bảo tuân thủ nguyên tắc theo quy định tại khoản 1 Điều 37 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP của Chính phủ.
2. Việc xem xét xử lý khoản nợ bị rủi ro được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau:
a) Khoản nợ thuộc phạm vi xử lý rủi ro theo quy định tại Điều 1 Thông tư này;
b) Khoản nợ của khách hàng tại Quỹ bảo lãnh tín dụng bị rủi ro do một trong các trường hợp quy định tại Điều 7 Thông tư này.
3. Việc xử lý rủi ro của Quỹ bảo lãnh tín dụng được xem xét theo từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào mức độ thiệt hại, trường hợp dẫn đến rủi ro quy định tại Điều 7 của Thông tư này, tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính và phương án trả nợ của khách hàng.
4. Một khoản nợ của khách hàng có thể được áp dụng một hoặc đồng thời nhiều biện pháp xử lý rủi ro theo quy định tại Thông tư này.”
Dẫn chiếu đến khoản 1 Điều 37 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; Điều 1 và 7 Thông tư số 57/2019/TT-BTC quy định như sau:
“Điều 37. Xử lý rủi ro
1. Nguyên tắc xử lý rủi ro: Việc xử lý rủi ro của Quỹ bảo lãnh tín dụng phải đảm bảo nguyên tắc:
a) Thực hiện đúng theo quy định của pháp luật;
b) Giảm thiệt hại tối đa cho nhà nước và gắn trách nhiệm của Quỹ bảo lãnh tín dụng, bên nhận bảo lãnh, bên được bảo lãnh và các cơ quan liên quan trong việc bảo lãnh, thu hồi khoản trả nợ thay theo quy định tại Nghị định này và pháp luật có liên quan.”
“Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Thông tư này hướng dẫn cơ chế xử lý rủi ro của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (sau đây viết tắt là Quỹ bảo lãnh tín dụng) đối với các khoản nợ của bên được bảo lãnh tại Quỹ bảo lãnh tín dụng sau khi được Quỹ bảo lãnh tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo quy định tại Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08 tháng 03 năm 2018 của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng (sau đây viết tắt là Nghị định số 34/2018/NĐ-CP của Chính phủ)”.
và
“Điều 7. Các trường hợp được xem xét xử lý rủi ro
1. Khách hàng bị thiệt hại về tài chính, tài sản do thiên tai, mất mùa, dịch bệnh, hỏa hoạn, rủi ro chính trị, chiến tranh gây ra ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn đến khách hàng không trả được nợ (gốc, lãi) đúng hạn theo Hợp đồng nhận nợ bắt buộc đã ký.
2. Khách hàng bị phá sản theo quy định của pháp luật hiện hành.
3. Nhà nước thay đổi chính sách làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, dẫn đến khách hàng không trả được nợ (gốc, lãi) đúng hạn theo Hợp đồng nhận nợ bắt buộc đã ký.
4. Khách hàng gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan khác ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn đến khách hàng không trả được nợ (gốc, lãi) đúng hạn theo Hợp đồng nhận nợ bắt buộc đã ký.
5. Khách hàng có khoản nợ xấu (từ nhóm 3 đến nhóm 5) theo kết quả phân loại nợ theo quy định tại khoản 1 Điều 36 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP của Chính phủ.”
Theo đó, việc xử lý rủi ro của Quỹ bảo lãnh tín dụng phải đảm bảo tuân thủ nguyên tắc nền tảng gồm:
- Thực hiện đúng theo quy định của pháp luật;
- Giảm thiệt hại tối đa cho nhà nước và gắn trách nhiệm của Quỹ bảo lãnh tín dụng, bên nhận bảo lãnh, bên được bảo lãnh và các cơ quan liên quan trong việc bảo lãnh, thu hồi khoản trả nợ thay theo quy định pháp luật.
Ta thấy được rằng, nguyên tắc này đã định hướng quản lý chặt chẽ trong hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc yêu cầu tuân thủ đúng quy định pháp luật bảo đảm mọi biện pháp xử lý đều có căn cứ, hạn chế tùy tiện và bảo vệ tính thống nhất trong hệ thống pháp luật. Đồng thời, nguyên tắc giảm thiệt hại tối đa cho Nhà nước và gắn trách nhiệm của các bên liên quan phản ánh quan điểm quản trị hiện đại, coi trọng hiệu quả sử dụng nguồn vốn công và đề cao trách nhiệm của từng chủ thể tham gia vào quá trình bảo lãnh và thu hồi nợ. Nhờ đó, cơ chế xử lý rủi ro không chỉ góp phần bảo toàn vốn của Quỹ bảo lãnh tín dụng mà còn củng cố tính công khai, minh bạch và tính bền vững của hoạt động bảo lãnh tín dụng.
Bên cạnh đó, việc xem xét xử lý khoản nợ bị rủi ro chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện gồm:
- Thứ nhất, khoản nợ đó phải thuộc phạm vi xử lý rủi ro theo quy định về phạm vi điều chỉnh tại Điều 1 Thông tư số 57/2019/TT-BTC. Điều này nhằm tránh tình trạng mở rộng hoặc lạm dụng cơ chế xử lý đối với những khoản nợ không thuộc trách nhiệm tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng;
- Thứ hai, về khoản nợ của khách hàng tại Quỹ bảo lãnh tín dụng bị rủi ro sẽ do một trong các trường hợp được xem xét xử lý rủi ro mà Điều 7 Thông tư số 57/2019/TT-BTC đã liệt kê chi tiết. Sự ghi nhận này giúp ngăn ngừa tình trạng lợi dụng cơ chế xử lý rủi ro để trốn tránh nghĩa vụ tài chính, từ đó bảo vệ tính kỷ luật và an toàn trong quản lý vốn bảo lãnh.
Ngoài ra, việc xử lý rủi ro của Quỹ bảo lãnh tín dụng sẽ được xem xét theo từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào mức độ thiệt hại, trường hợp mà dẫn đến rủi ro theo pháp luật, cũng như căn cứ vào tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính và cả phương án trả nợ của khách hàng. Trong đó, một khoản nợ của khách hàng có thể được áp dụng một hoặc đồng thời nhiều biện pháp xử lý rủi ro mà pháp luật quy định. Điều khoản này thể hiện tính linh hoạt và thận trọng trong cơ chế xử lý rủi ro của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Việc xem xét từng trường hợp cụ thể giúp đảm bảo quyết định xử lý được đưa ra trên cơ sở toàn diện, phản ánh đúng mức độ thiệt hại và khả năng khắc phục của khách hàng. Đồng thời, quy định cho phép áp dụng một hoặc nhiều biện pháp xử lý cùng lúc tạo điều kiện để Quỹ chủ động hơn trong việc kiểm soát rủi ro, bảo toàn vốn và duy trì sự ổn định tài chính.
Trân trọng./.