Bản án hình sự phúc thẩm số 412/2023/HS-PT ngày 27/6/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Nguyễn Viết C do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Viết C

Nội dung sửa án:   

(i) Xét thấy, trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm thì Tòa án nhân dân tối cao đã có văn bản số 100/TANDTC-PC ngày 13/6/2023 hướng dẫn về việc áp dụng án lệ số 47/2021/AL hướng dẫn cụ thể hơn về việc áp dụng án lệ số 47. Trên cơ sở hướng dẫn này, thể hiện không phải lúc nào dùng hung khí nguy hiểm tấn công vào vùng trọng yếu cũng là giết người mà phải đánh vào vùng trọng yếu nếu không cấp cứu kịp thời sẽ dẫn đến chết người. “Vùng trọng yếu trên cơ thể con người là vùng có các cơ quan quan trọng quyết định đến sự sống của con người (ví dụ: tim, gan, thận, não, động mạch chủ…) nếu bị xâm hại mà người bị xâm hại không được cấp cứu kịp thời sẽ chết. Do đó, ngoài việc chứng minh bị cáo đã có hành vi dùng hung khí nguy hiểm tấn công vào vùng trọng yếu trên cơ thể bị hại thì cần phải xem xét, đánh giá toàn diện các tài liệu, chứng cứ của vụ án, các tình tiết thể hiện tính chất, mức độ của hành vi, cơ chế hình thành vết thương, sự quyết liệt trong thực hiện hành vi, vị trí cơ thể bị hại mà bị cáo có ý định tấn công để chứng minh ý thức chủ quan của bị cáo là cố ý thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho tính mạng của bị hại; hành vi của bị cáo thể hiện tính chất côn đồ, hung hãn, quyết liệt, coi thường tính mạng của người khác; bị hại không chết là ngoài ý thức, mong muốn chủ quan của bị cáo”.

(ii) Như vậy, tổn thương của chị H không phải là “Vùng trọng yếu” của cơ thể con người; tổn thương của cháu N mặc dù là vùng đầu nhưng cơ chế hình thành vết thương tích này không thể do bị cáo dùng búa đánh thẳng vào đầu mà do có sự giằng co giữa bị cáo với chị H và cháu N như lời khai của bị cáo là phù hợp.

(iii) Đánh giá mục đích, động cơ và hành vi của bị cáo, đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, đặc biệt là “Giấy chứng nhận thương tích” lúc nhập viện của các bị hại và Kết luận giám định thương tích nêu trên, thể hiện: Thương tích do bị cáo thực hiện bằng loại hung khí như án sơ thẩm miêu tả nhưng bị cáo không tấn công quyết liệt, bị hại không chết là ngoài mong muốn của bị cáo. Hành vi trên của bị cáo không nhằm tước đoạt mạng sống của các bị hại mà chỉ cố ý gây thương tích cho các bị hại.

(iv) Về việc bị cáo trước đó có nhắn tin đe dọa anh U “Tau không đủ sức giết mày nhưng đủ sức giết vợ con mày” xuất phát từ việc bức xúc đòi nợ anh U không trả, trong lúc nóng giận bị cáo đã có những lời lẽ nêu trên chứ không có ý thức nhưng hành vi của bị cáo thể hiện bị cáo không quyết liệt chiếm đoạt tính mạng của bị hại. Do đó, hành vi trên của bị cáo chỉ cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo qui định tại điểm a, c, i Khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Việc truy tố, xét xử Bị cáo C về tội “Giết người” (chưa đạt) là chưa đúng quy định pháp luật như đã phân tích trên.

Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã 03 lần trả hồ sơ điều tra bổ sung. Hai lần truy tố đầu tiên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đều giữ quan điểm truy tố về tội “Cố ý gây thương tích”. Việc điều tra, thu thập chứng cứ cũng đã đảm bảo đầy đủ. Do đó, Hội đồng xét xử thấy không cần thiết hủy án sơ thẩm để điều tra, xác định lại tội danh mà chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 149/2022/HS-ST ngày 30 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, chuyển tội danh từ tội “Giết người” sang tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, c, i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

(v) Tuy nhiên, bị cáo có 03 tình tiết định khung tại các điểm a, c, i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là: Dùng hung khí nguy hiểm có khả năng gây nguy hại cho nghiều người; phạm tội với người dưới 16 tuổi; có tính chất côn đồ. Do đó, cần áp dụng mức cao nhất của khung hình phạt, xử phạt bị cáo 03 năm tù để đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung.

Bài viết liên quan

Góp ý