
Ngành, nghề Việt Nam chưa cam kết về tiếp cận thị trường là gì? Nguyên tắc áp dụng hạn chế về tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài được quy định như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Tôi là nhà đầu tư nước ngoài có mong muốn tìm hiểu về ngành, nghề Việt Nam đã cam kết và chưa cam kết tiếp cận thị trường đang đang được phân biệt như thế nào. Đồng thời, trong trường hợp một ngành, nghề có hạn chế tiếp cận thị trường thì sẽ được áp dụng theo nguyên tắc ra sao. Vì vậy, xin hỏi Luật sư, ngành, nghề Việt Nam chưa cam kết về tiếp cận thị trường là gì? Nguyên tắc áp dụng hạn chế về tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài được quy định như thế nào? Mong Luật sư giải đáp giúp tôi.
MỤC LỤC
1. Ngành, nghề Việt Nam chưa cam kết về tiếp cận thị trường là gì?
Trả lời:
1. Ngành, nghề Việt Nam chưa cam kết về tiếp cận thị trường là gì?
Ngành, nghề Việt Nam chưa cam kết về tiếp cận thị trường được định nghĩa tại khoản 13 Điều 2 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Đầu tư như sau:
“Điều 2. Giải thích từ ngữ
Trong Nghị định này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
…
13. Ngành, nghề Việt Nam chưa cam kết về tiếp cận thị trường là ngành, nghề mà theo các điều ước quốc tế về đầu tư Việt Nam không có cam kết, chưa cam kết hoặc bảo lưu quyền ban hành các biện pháp không phù hợp với nghĩa vụ về tiếp cận thị trường, nghĩa vụ đối xử quốc gia hoặc các nghĩa vụ khác về không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài được quy định tại các điều ước quốc tế về đầu tư đó.
…”
Như vậy, ngành, nghề Việt Nam chưa cam kết tiếp cận thị trường có bản chất là các ngành, nghề mà ở đó cho phép sự bất bình đẳng nhất định về quyền tiếp cận thị trường giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, cơ sở của sự bất bình đẳng này đến từ các điều ước quốc tế về đầu tư mà nước ta:
- Không có cam kết;
- Chưa cam kết;
- Bảo lưu (tức có bản chất loại bỏ tính ràng buộc) liên quan tới các điều khoản về quyền ban hành các biện pháp không phù hợp với nghĩa vụ về tiếp cận thị trường, nghĩa vụ đối xử quốc gia hoặc các nghĩa vụ khác về không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Ví dụ như các ngành, nghề đánh bắt hoặc khai thác hải sản, dịch vụ bưu chính công ích hay dịch vụ bưu chính viễn thông, dịch vụ giáo dục,…
Mục đích của sự phân biệt này là nhằm bảo vệ cho thị trường trong nước trước bối cảnh nền kinh tế nước ta chưa đủ sức cạnh tranh với các nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tiềm lực và năng lực to lớn. Đồng thời, còn là sự cân nhắc đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và bảo vệ các giá trị văn hoá dân tộc, quyền lợi của người dân Việt Nam phù hợp với định hướng đi lên, phát triển bền vững của đất nước.
2. Nguyên tắc áp dụng hạn chế về tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài được quy định như thế nào?
Nguyên tắc áp dụng hạn chế về tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài được quy định tại Điều 17 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Đầu tư như sau:
“Điều 17. Nguyên tắc áp dụng hạn chế về tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài
1. Trừ những ngành, nghề thuộc Danh mục ngành, nghề hạn chế tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài quy định tại Phụ lục I của Nghị định này, nhà đầu tư nước ngoài được tiếp cận thị trường như quy định đối với nhà đầu tư trong nước.
2. Nhà đầu tư nước ngoài không được đầu tư trong các ngành, nghề chưa được tiếp cận thị trường theo quy định tại Mục A Phụ lục I của Nghị định này.
3. Đối với các ngành, nghề tiếp cận thị trường có điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài theo quy định tại Mục B Phụ lục I của Nghị định này, nhà đầu tư nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện tiếp cận thị trường được đăng tải theo quy định tại Điều 18 Nghị định này.
4. Điều kiện tiếp cận thị trường đối với các ngành, nghề Việt Nam chưa cam kết về tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài được áp dụng như sau:
a) Trường hợp các luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ (sau đây gọi chung là pháp luật Việt Nam) không có quy định hạn chế tiếp cận thị trường đối với ngành, nghề đó thì nhà đầu tư nước ngoài được tiếp cận thị trường như quy định đối với nhà đầu tư trong nước;
b) Trường hợp pháp luật Việt Nam đã có quy định về hạn chế tiếp cận thị trường của nhà đầu tư nước ngoài đối với ngành, nghề đó thì áp dụng quy định của pháp luật Việt Nam.
5. Trường hợp các luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ được ban hành (sau đây gọi chung là văn bản mới ban hành) có quy định về điều kiện tiếp cận thị trường của nhà đầu tư nước ngoài đối với các ngành, nghề Việt Nam chưa cam kết theo quy định tại khoản 4 Điều này thì các điều kiện đó được áp dụng như sau:
a) Nhà đầu tư nước ngoài đã được áp dụng điều kiện tiếp cận thị trường theo quy định tại khoản 4 Điều này trước ngày văn bản mới ban hành có hiệu lực được tiếp tục thực hiện hoạt động đầu tư theo các điều kiện đó. Trường hợp thành lập tổ chức kinh tế mới, thực hiện dự án đầu tư mới, nhận chuyển nhượng dự án đầu tư, đầu tư góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế khác, đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc điều chỉnh, bổ sung mục tiêu, ngành, nghề mà theo quy định của văn bản mới ban hành phải đáp ứng điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài thì phải đáp ứng điều kiện đó. Trong trường hợp này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền không xem xét lại điều kiện tiếp cận thị trường đối với các ngành, nghề mà nhà đầu tư đã được chấp thuận trước đó;
b) Nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư sau thời điểm văn bản mới được ban hành có hiệu lực phải đáp ứng điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của văn bản đó.
6. Nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư thuộc các ngành, nghề khác nhau quy định tại Phụ lục I Nghị định này phải đáp ứng toàn bộ điều kiện tiếp cận thị trường đối với các ngành, nghề đó.
7. Nhà đầu tư nước ngoài thuộc quốc gia, vùng lãnh thổ không phải là thành viên WTO thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam được áp dụng điều kiện tiếp cận thị trường như quy định đối với nhà đầu tư thuộc quốc gia, vùng lãnh thổ là thành viên WTO, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế giữa Việt Nam và quốc gia, vùng lãnh thổ đó có quy định khác.
8. Nhà đầu tư nước ngoài thuộc đối tượng điều chỉnh của điều ước quốc tế về đầu tư có quy định về điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư đó thuận lợi hơn so với quy định của pháp luật Việt Nam thì được áp dụng điều kiện tiếp cận thị trường theo điều ước đó.
9. Nhà đầu tư nước ngoài thuộc đối tượng áp dụng của các điều ước quốc tế về đầu tư có quy định khác nhau về điều kiện tiếp cận thị trường thì được lựa chọn áp dụng điều kiện tiếp cận thị trường đối với tất cả các ngành, nghề kinh doanh theo một trong các điều ước đó. Trường hợp đã lựa chọn áp dụng điều kiện tiếp cận thị trường theo một điều ước quốc tế về đầu tư (gồm cả điều ước được ký mới hoặc được sửa đổi, bổ sung sau ngày điều ước đó có hiệu lực mà nhà đầu tư đó thuộc đối tượng áp dụng) thì nhà đầu tư nước ngoài thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo toàn bộ quy định của điều ước đó.
10. Hạn chế về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài theo quy định tại các điều ước quốc tế về đầu tư được áp dụng như sau:
a) Trường hợp nhiều nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào tổ chức kinh tế và thuộc đối tượng áp dụng của một hoặc nhiều điều ước quốc tế về đầu tư thì tổng tỷ lệ sở hữu của tất cả các nhà đầu tư nước ngoài trong tổ chức kinh tế đó không được vượt quá tỷ lệ cao nhất theo quy định của một điều ước quốc tế có quy định về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài đối với một ngành, nghề cụ thể;
b) Trường hợp nhiều nhà đầu tư nước ngoài thuộc cùng một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào tổ chức kinh tế thì tổng tỷ lệ sở hữu của tất cả các nhà đầu tư đó không được vượt quá tỷ lệ sở hữu quy định tại điều ước quốc tế về đầu tư áp dụng đối với các nhà đầu tư đó;
c) Đối với công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán hoặc quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán theo quy định của pháp luật về chứng khoán, trường hợp pháp luật về chứng khoán có quy định khác về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài thì thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán;
d) Trường hợp tổ chức kinh tế có nhiều ngành, nghề kinh doanh mà điều ước quốc tế về đầu tư có quy định khác nhau về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài thì tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại tổ chức kinh tế đó không vượt quá hạn chế về tỷ lệ sở hữu nước ngoài đối với ngành, nghề có hạn chế về tỷ lệ sở hữu nước ngoài thấp nhất.”
Như vậy, áp dụng hạn chế về tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài được quy định gồm các nguyên tắc cơ bản được tóm tắt như sau:
- Thứ nhất, nhà đầu tư nước ngoài được tiếp cận thị trường như nhà đầu tư trong nước, trừ những ngành, nghề thuộc Danh mục ngành, nghề hạn chế tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài. Trong đó:
+ Đối với ngành, nghề chưa được tiếp cận thị trường thì nhà đầu tư nước ngoài không được đầu tư.
+ Đối với ngành, nghề tiếp cận thị trường có điều kiện thì nhà đầu tư nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện tiếp cận thị trường tương ứng với ngành, nghề đó.
- Thứ hai, đối với ngành, nghề Việt Nam chưa cam kết về tiếp cận thị trường mà:
+ Pháp luật Việt Nam không có quy định hạn chế tiếp cận thị trường thì nhà đầu tư nước ngoài được tiếp cận như đối với nhà đầu tư trong nước;
+ Pháp luật Việt Nam đã có quy định về hạn chế tiếp cận thị trường thì áp dụng quy định của pháp luật Việt Nam.
+ Trong trường hợp pháp luật Việt Nam trước đó không có quy định hoặc đã có quy định nhưng sau đó có văn bản mới ban hành quy định về điều kiện tiếp cận thì trường thì nhà đầu tư nước ngoài được tiếp tục áp dụng theo hình thức cũ (như nhà đầu tư trong nước hoặc quy định đã có hiệu lực trước đó) theo một trong hai trường hợp nêu trên.
- Thứ ba, nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư thuộc nhiều ngành, nghề hạn chế tiếp cận thị trường khác nhau thì phải đáp ứng toàn bộ điều kiện tiếp cận thị trường đối với tất cả các ngành, nghề đó.
- Thứ tư, nhà đầu tư nước ngoài thuộc quốc gia, vùng lãnh thổ không phải thành viên WTO thì vẫn được tiếp cận thị trường như nhà đầu tư thuộc quốc gia, vùng lãnh thổ là thành viên WTO, trừ một số trường hợp nhất định.
- Thứ năm, khi tồn tại điều ước quốc tế điều chỉnh hoạt động đầu tư có quy định về điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài thuận lợi hơn so với pháp luật Việt Nam thì được áp dụng theo điều ước đó.
- Thứ sáu, khi tồn tại nhiều điều ước quốc tế có quy định khác nhau về điều kiện tiếp cận thị trường mà nhà đầu tư nước ngoài đều thuộc đối tượng áp dụng thì nhà đầu tư đó có quyền lựa chọn một điều ước quốc tế để điều chỉnh hoạt động kinh doanh của mình trong suốt quá trình đầu tư.
- Cuối cùng, nguyên tắc hạn chế về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài được thực hiện như sau:
+ Nhiều nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào tổ chức kinh tế và thuộc đối tượng áp dụng của một hoặc nhiều điều ước quốc tế về đầu tư thì tổng tỷ lệ sở hữu của tất cả các nhà đầu tư nước ngoài trong tổ chức kinh tế đó không được vượt quá tỷ lệ cao nhất theo quy định của một điều ước quốc tế.
+ Nhiều nhà đầu tư nước ngoài thuộc cùng một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ thì tổng tỷ lệ sở hữu không được vượt quá tỷ lệ sở hữu quy định tại điều ước quốc tế về đầu tư áp dụng đối với các nhà đầu tư đó.
+ Đối với công ty đại chúng, công ty chứng khoán và công ty khác liên quan thì áp dụng theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
+ Đối với tổ chức kinh tế có nhiều ngành, nghề kinh doanh thì tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại tổ chức kinh tế đó không vượt quá hạn chế về tỷ lệ sở hữu nước ngoài đối với ngành, nghề có hạn chế về tỷ lệ sở hữu nước ngoài thấp nhất.
Vậy, nguyên tắc áp dụng hạn chế về tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài hiện nay ở nước ta được quy định rõ ràng, chặt chẽ, nhất quán từ chung đến riêng, từ bao quát đến cụ thể. Việc nắm rõ các nguyên tắc áp dụng này giúp nhà đầu tư nước ngoài kịp thời điều chỉnh, lựa chọn hoạt động đầu tư sao cho phù hợp với quy định của pháp luật và lợi ích hợp pháp của mình. Đồng thời, cũng có ý nghĩa quan trọng trong thực hiện các chức năng quản lý, điều tra từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư cũng như lợi ích quốc gia, dân tộc.
Trân trọng./.