
Hình thức xử phạt vi phạm và biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính về cạnh tranh được quy định như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Doanh nghiệp của tôi vừa qua có tham gia một số hoạt động kinh doanh, tuy nhiên trong quá trình thực hiện thì bị cơ quan chức năng lập biên bản cho rằng đã có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Tôi rất lo lắng vì không rõ trong trường hợp này doanh nghiệp có thể bị xử phạt theo những hình thức nào? Và ngoài hình phạt chính thì có còn phải áp dụng thêm biện pháp nào để khắc phục hậu quả không? Luật Cạnh tranh hiện nay quy định cụ thể về hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả ra sao? Mong luật sư giải đáp giúp, xin cảm ơn.
MỤC LỤC
Trả lời:
1. Nguyên tắc xử lý vi phạm, hình thức xử lý vi phạm và biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm pháp luật về cạnh tranh được quy định như thế nào?
Trong lĩnh vực cạnh tranh, việc xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm là yếu tố quan trọng nhằm duy trì trật tự, bảo đảm môi trường kinh doanh công bằng và minh bạch. Điều 110 Luật Cạnh tranh 2018 đã đặt ra những nguyên tắc cơ bản về xử lý vi phạm, đồng thời quy định rõ các hình thức xử lý và biện pháp khắc phục hậu quả. Cụ thể:
“Điều 110. Nguyên tắc xử lý vi phạm, hình thức xử lý vi phạm và biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm pháp luật về cạnh tranh
1. Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
2. Đối với mỗi hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh, tổ chức, cá nhân vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính sau đây:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền.
3. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về cạnh tranh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
a) Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc văn bản tương đương, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề;
b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh;
c) Tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.
4. Ngoài các hình thức xử phạt theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về cạnh tranh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:
a) Cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền;
b) Loại bỏ điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng, thỏa thuận hoặc giao dịch kinh doanh;
c) Chia, tách, bán lại một phần hoặc toàn bộ vốn góp, tài sản của doanh nghiệp hình thành sau tập trung kinh tế;
d) Chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp hình thành sau tập trung kinh tế;
đ) Cải chính công khai;
e) Các biện pháp cần thiết khác để khắc phục tác động của hành vi vi phạm.
5. Chính phủ quy định chi tiết các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh.”
Theo đó, tùy vào tính chất, mức độ vi phạm mà tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; trường hợp gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Về hình thức xử phạt, đối với mỗi hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh, tổ chức, cá nhân phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Không những thế, tùy vào tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về cạnh tranh có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung gồm:
- Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc văn bản tương đương, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề;
- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh;
- Tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.
Từ đó ta thấy được rằng, điều khoản này không chỉ mang tính răn đe, ngăn ngừa mà còn góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Ngoài những hình thức xử phạt được liệt kê trên thì các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về cạnh tranh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:
- Cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền;
- Loại bỏ điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng, thỏa thuận hoặc giao dịch kinh doanh;
- Chia, tách, bán lại một phần hoặc toàn bộ vốn góp, tài sản của doanh nghiệp hình thành sau tập trung kinh tế;
- Chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp hình thành sau tập trung kinh tế;
- Cải chính công khai;
- Các biện pháp cần thiết khác để khắc phục tác động của hành vi vi phạm.
Như vậy, Điều 110 Luật Cạnh tranh 2018 đã xây dựng nên một nền tảng pháp lý mang tính hệ thống và chặt chẽ nhằm xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực cạnh tranh. Điểm nổi bật của quy định này là không chỉ xác định rõ nguyên tắc xử lý dựa trên tính chất, mức độ vi phạm mà còn mở rộng, đa dạng hóa các chế tài áp dụng, từ hình thức cảnh cáo, phạt tiền cho đến những biện pháp bổ sung mang tính răn đe cao.
Ngoài ra, cơ chế xử lý được thiết lập không đơn thuần dừng ở việc trừng phạt, mà còn hướng đến khắc phục và hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của hành vi vi phạm đối với thị trường và xã hội. Sự kết hợp giữa các hình thức xử phạt chính, xử phạt bổ sung cùng các biện pháp khắc phục hậu quả đã tạo nên một công cụ pháp lý toàn diện, vừa đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng, vừa góp phần khôi phục trật tự cạnh tranh. Chính điều này là nền tảng quan trọng giúp thị trường vận hành minh bạch, ổn định, đồng thời thúc đẩy sự phát triển lành mạnh và bền vững của nền kinh tế.
2. Đối với hình thức xử phạt vi phạm và biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính về cạnh tranh được pháp luật quy định cụ thể ra sao?
Để thiết lập khuôn khổ pháp lý cụ thể hơn về hình thức xử phạt vi phạm và biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính về cạnh tranh, Điều 3 Nghị định số 75/2019/NĐ-CP ngày 26/9/2019 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh đã nêu rõ:
“Điều 3. Hình thức xử phạt vi phạm và biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính về cạnh tranh
1. Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính về cạnh tranh, tổ chức, cá nhân vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính sau đây:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền.
2. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính về cạnh tranh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
a) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 12 tháng;
b) Tịch thu tang vật vi phạm, phương tiện được sử dụng để vi phạm;
c) Tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm;
d) Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc văn bản tương đương.
3. Ngoài các hình thức xử phạt theo quy định tại các khoản 1 và khoản 2 Điều này, tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính về cạnh tranh còn có thể bị buộc áp dụng một hoặc một số biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:
a) Buộc cải chính công khai;
b) Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm;
c) Buộc cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền;
d) Buộc loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng, thỏa thuận hoặc giao dịch kinh doanh;
đ) Buộc chia, tách, bán lại một phần hoặc toàn bộ vốn góp, tài sản của doanh nghiệp hình thành sau tập trung kinh tế;
e) Buộc chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp nhận sáp nhập, doanh nghiệp mua lại, doanh nghiệp mới hình thành sau tập trung kinh tế;
g) Buộc cung cấp đầy đủ các thông tin, tài liệu;
h) Buộc khôi phục các điều kiện phát triển kỹ thuật, công nghệ mà doanh nghiệp đã cản trở;
i) Buộc loại bỏ các điều kiện bất lợi đã áp đặt cho khách hàng;
k) Buộc khôi phục lại các điều khoản hợp đồng, hợp đồng đã thay đổi hoặc hủy bỏ mà không có lý do chính đáng;
l) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu.
4. Thời hạn áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại điểm e khoản 3 Điều này phải được nêu trong quyết định xử lý, xử phạt.
5. Trường hợp cơ quan nhà nước thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 Điều 8 của Luật Cạnh tranh, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia yêu cầu cơ quan nhà nước chấm dứt hành vi vi phạm và khắc phục hậu quả. Cơ quan nhà nước được yêu cầu phải chấm dứt hành vi vi phạm, khắc phục hậu quả và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.”
Dẫn chiếu đến khoản 1 Điều 8 Luật Cạnh tranh 2018 quy định:
“Điều 8. Các hành vi bị nghiêm cấm có liên quan đến cạnh tranh
1. Cơ quan nhà nước thực hiện hành vi gây cản trở cạnh tranh trên thị trường sau đây:
a) Ép buộc, yêu cầu, khuyến nghị doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hiện hoặc không thực hiện việc sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng, sử dụng dịch vụ cụ thể hoặc mua, bán hàng hóa, cung ứng, sử dụng dịch vụ với doanh nghiệp cụ thể, trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước hoặc trong trường hợp khẩn cấp theo quy định của pháp luật;
b) Phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp;
c) Ép buộc, yêu cầu, khuyến nghị các hiệp hội ngành, nghề, tổ chức xã hội - nghề nghiệp khác hoặc các doanh nghiệp liên kết với nhau nhằm hạn chế cạnh tranh trên thị trường;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để can thiệp trái pháp luật vào hoạt động cạnh tranh.”
Theo đó, đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính về cạnh tranh, tổ chức, cá nhân vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính gồm:
- Cảnh cáo;
- Phạt tiền.
Không những vậy, tùy vào tính chất, mức độ vi phạm mà tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính về cạnh tranh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung sau:
- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 12 tháng;
- Tịch thu tang vật vi phạm, phương tiện được sử dụng để vi phạm;
- Tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm;
- Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc văn bản tương đương.
Bên cạnh đó, điều khoản trên còn ghi nhận ngoài các hình thức xử phạt được nêu trên, tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính về cạnh tranh còn có thể bị buộc áp dụng một hoặc một số biện pháp khắc phục hậu quả đã được liệt kê cụ thể gồm:
- Buộc cải chính công khai;
- Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm;
- Buộc cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền;
- Buộc loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng, thỏa thuận hoặc giao dịch kinh doanh;
- Buộc chia, tách, bán lại một phần hoặc toàn bộ vốn góp, tài sản của doanh nghiệp hình thành sau tập trung kinh tế;
- Buộc chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp nhận sáp nhập, doanh nghiệp mua lại, doanh nghiệp mới hình thành sau tập trung kinh tế;
- Buộc cung cấp đầy đủ các thông tin, tài liệu;
- Buộc khôi phục các điều kiện phát triển kỹ thuật, công nghệ mà doanh nghiệp đã cản trở;
- Buộc loại bỏ các điều kiện bất lợi đã áp đặt cho khách hàng;
- Buộc khôi phục lại các điều khoản hợp đồng, hợp đồng đã thay đổi hoặc hủy bỏ mà không có lý do chính đáng;
- Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu.
Cần lưu ý rằng, về thời hạn áp dụng biện pháp buộc chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp nhận sáp nhập, doanh nghiệp mua lại, doanh nghiệp mới hình thành sau tập trung kinh tế để khắc phục hậu quả phải được nêu ngay trong quyết định xử lý, xử phạt. Bên cạnh đó, nếu cơ quan nhà nước thực hiện những hành vi gây cản trở cạnh tranh trên thị trường theo quy định của pháp luật, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia sẽ yêu cầu cơ quan nhà nước đó chấm dứt hành vi vi phạm và phải khắc phục hậu quả. Còn cơ quan nhà nước được yêu cầu phải chấm dứt hành vi vi phạm, khắc phục hậu quả và bồi thường thiệt hại theo luật định.
Nhìn chung, điều khoản này đã thiết lập một hệ thống chế tài tương đối toàn diện, kết hợp giữa hình thức xử phạt chính, xử phạt bổ sung và các biện pháp khắc phục hậu quả. Điều này không chỉ đảm bảo tính răn đe đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm mà còn hướng đến việc khôi phục lại sự công bằng, minh bạch và trật tự cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt, việc quy định rõ trách nhiệm khắc phục hậu quả, bao gồm cả đối với cơ quan nhà nước nếu có hành vi vi phạm, cho thấy tính nghiêm minh và không có ngoại lệ của pháp luật cạnh tranh. Qua đó, góp phần quan trọng vào việc tạo lập một môi trường kinh doanh lành mạnh, bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp, người tiêu dùng cũng như thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Trân trọng./.