Hành vi liên doanh giữa các doanh nghiệp bị cấm bị xử phạt như thế nào?

Hành vi liên doanh giữa các doanh nghiệp bị cấm bị xử phạt như thế nào?

Hành vi liên doanh giữa các doanh nghiệp bị cấm bị xử phạt như thế nào?

Luật sư cho tôi hỏi: Gần đây, tôi thấy hai doanh nghiệp kinh doanh vật liệu xây dựng lớn trong khu vực của tôi là công ty A và công ty B đã bắt tay nhau thành lập một công ty mới là công ty C. Họ nói rằng đây là một công ty liên doanh để cùng nhau sản xuất và phân phối một loại vật liệu mới.Tuy nhiên, sau khi công ty C ra đời, giá các loại vật liệu xây dựng khác của cả công ty A và công ty B đều đồng loạt tăng lên. Giờ đây, người dân như chúng tôi không còn nhiều lựa chọn mua sắm nữa.Tôi lo ngại rằng việc liên doanh này đang làm giảm sự cạnh tranh trên thị trường và gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Tôi muốn biết rằng theo pháp luật, hành vi liên doanh này có bị coi là vi phạm không? Và nếu có, các doanh nghiệp này sẽ bị xử phạt như thế nào? Mong luật sư giúp tôi giải đáp, xin cảm ơn.

MỤC LỤC

1. Theo pháp luật cạnh tranh, liên doanh giữa các doanh nghiệp được hiểu như thế nào?

2. Hành vi liên doanh giữa các doanh nghiệp bị cấm bị xử phạt như thế nào?

 

Trả lời:

1. Theo pháp luật cạnh tranh, liên doanh giữa các doanh nghiệp được hiểu như thế nào?

Theo ghi nhận tại điểm d khoản 1 Điều 29 Luật Cạnh tranh 2018 thì liên doanh giữa các doanh nghiệp là một trong các hình thức tập trung kinh tế, cụ thể:

Điều 29. Các hình thức tập trung kinh tế

1. Tập trung kinh tế bao gồm các hình thức sau đây:

...

d) Liên doanh giữa các doanh nghiệp;

...”

Bên cạnh đó, khoản 5 Điều 29 Luật Cạnh tranh 2018 còn giải thích:

Điều 29. Các hình thức tập trung kinh tế

5. Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới.”

Như vậy, liên doanh giữa các doanh nghiệp được hiểu là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới. Thay vì chuyển giao toàn bộ tài sản và chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp cũ, liên doanh cho phép các doanh nghiệp độc lập vẫn tồn tại và hoạt động song song, đồng thời cùng nhau tạo ra một thực thể kinh tế mới. Ta thấy rằng, theo pháp luật Việt Nam, hành vi liên doanh giữa các doanh nghiệp được nhận diện là hình thức tập trung kinh tế, phần nào đánh giá được nguy cơ tác động của hành vi này đến cơ cấu thị trường, cũng như ảnh hưởng đến cạnh tranh và quyền lợi của người tiêu dùng.

2. Hành vi liên doanh giữa các doanh nghiệp bị cấm bị xử phạt như thế nào?

Liên doanh là một hình thức hợp tác phổ biến giữa các doanh nghiệp nhằm mục đích tận dụng lợi thế của nhau, mở rộng thị trường hoặc phát triển sản phẩm mới. Tuy nhiên, khi hành vi liên doanh được sử dụng để tạo ra một thực thể có sức mạnh thị trường quá lớn, nó có thể gây ra những hệ lụy nghiêm trọng đến sự cạnh tranh lành mạnh. Do đó, pháp luật cạnh tranh đã ban hành cơ chế kiểm soát và xử lý những hành vi liên doanh bị cấm có thể gây hại cho thị trường, đảm bảo một môi trường kinh doanh công bằng và minh bạch. Chi tiết tại Điều 13 Nghị định số 75/2019/NĐ-CP ngày 26/9/2019 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh như sau:

Điều 13. Hành vi liên doanh giữa các doanh nghiệp bị cấm

1. Phạt tiền các bên tham gia liên doanh từ 01% đến 05% tổng doanh thu trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm của doanh nghiệp tham gia liên doanh đối với hành vi liên doanh bị cấm theo quy định tại Điều 30 của Luật Cạnh tranh,

2. Hình thức xử phạt bổ sung:

Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đã cấp cho doanh nghiệp liên doanh.

3. Biện pháp khắc phục hậu quả:

Buộc chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp liên doanh.”

Dẫn chiếu đến Điều 30 Luật Cạnh tranh 2018 quy định như sau:

Điều 30. Tập trung kinh tế bị cấm

Doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường Việt Nam.”

Theo đó, đối với hành vi liên doanh bị cấm theo quy định của pháp luật, điều khoản trên quy định phạt tiền các bên tham gia liên doanh từ 01% đến 05% tổng doanh thu trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm của doanh nghiệp tham gia liên doanh. Cho thấy đây là một sự răn đe tài chính đáng kể, khiến các doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi liên doanh. Hơn nữa, việc thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đã cấp cho doanh nghiệp liên doanh là một hình thức xử phạt bổ sung không kém phần nghiêm khắc, phản ánh sự không khoan nhượng của Nhà nước đối với những hành vi vi phạm nghiêm trọng.

Bên cạnh đó, biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng là buộc chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp liên doanh, cho thấy mục tiêu không chỉ là trừng phạt mà còn là khôi phục lại sự cân bằng thị trường, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng và duy trì một môi trường kinh doanh cạnh tranh, lành mạnh. Từ đó, có thể nhận định rằng đây là công cụ pháp lý mạnh mẽ để bảo vệ một môi trường kinh doanh công bằng và bình đẳng. Những quy định này gửi đi một thông điệp rõ ràng đến các doanh nghiệp, mặc dù pháp luật khuyến khích hợp tác và mở rộng, nhưng mọi hoạt động liên doanh phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc về cạnh tranh. Mục tiêu cuối cùng là đảm bảo rằng sự phát triển của một vài doanh nghiệp không gây tổn hại đến lợi ích chung của toàn bộ nền kinh tế và quyền lợi của hàng triệu người tiêu dùng.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý