
Các trường hợp nào được xem xét xử lý rủi ro? Xác định mức thiệt hại về vốn và tài sản được thực hiện như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Tôi là đại diện một doanh nghiệp nhỏ và vừa đang vay vốn từ Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong quá trình vay, tôi muốn tìm hiểu rằng, những trường hợp nào được xem xét là rủi ro cần xử lý và việc xác định mức thiệt hại về vốn và tài sản được thực hiện như thế nào? Tôi cũng quan tâm đến cách Quỹ đánh giá và quản lý rủi ro này để bảo đảm quyền lợi của cả Quỹ lẫn doanh nghiệp, đồng thời minh bạch trong quá trình xử lý các khoản rủi ro phát sinh. Mong luật sư giải đáp giúp tôi, xin cảm ơn.
MỤC LỤC
1. Các trường hợp nào được xem xét xử lý rủi ro?
2. Xác định mức thiệt hại về vốn và tài sản được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
1. Các trường hợp nào được xem xét xử lý rủi ro?
Trong quá trình vay vốn từ Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp có thể gặp phải những biến cố khách quan hoặc chủ quan ảnh hưởng đến khả năng trả nợ. Để đảm bảo tính linh hoạt, chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp và duy trì sự an toàn của nguồn vốn nhà nước, Điều 5 Thông tư số 14/2020/TT-BKHĐT ngày 31/12/2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn việc xử lý rủi ro trong hoạt động cho vay trực tiếp của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (sau đây gọi tắt là “Thông tư số 14/2020/TT-BKHĐT”) đã cụ thể các trường hợp được xem xét xử lý rủi ro, thể hiện sự nhân văn, công bằng và chặt chẽ trong hoạt động tài chính công như sau:
“Điều 5. Các trường hợp được xem xét xử lý rủi ro
1. DNNVV bị thiệt hại về tài chính, tài sản do thiên tai, thảm họa, mất mùa, dịch bệnh, hỏa hoạn, chiến tranh, tình trạng khẩn cấp quốc gia.
2. DNNVV gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan khác làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn đến không có khả năng hoặc không trả được nợ vay (gốc, lãi) theo đúng Hợp đồng đã ký.
3. DNNVV có khoản nợ xấu theo kết quả phân loại nợ được quy định tại khoản 1 Điều 37 Nghị định số 39/2019/NĐ-CP của Chính phủ và không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
4. DNNVV bị phá sản theo quy định của pháp luật hiện hành.”
Dẫn chiếu đến khoản 1 Điều 37 Nghị định số 39/2019/NĐ-CP ngày 10/5/2019 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ghi nhận rằng:
“Điều 37. Phân loại nợ
1. Quỹ thực hiện phân loại nợ đối với toàn bộ dư nợ cho vay trực tiếp theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về phân loại nợ đối với các tổ chức tín dụng.”
Theo đó, những trường hợp được xem xét xử lý rủi ro gồm:
- Trường hợp 1, doanh nghiệp nhỏ và vừa bị thiệt hại về tài chính, tài sản do thiên tai, thảm họa, mất mùa, dịch bệnh, hỏa hoạn, chiến tranh, tình trạng khẩn cấp quốc gia. Đây là nhóm rủi ro bất khả kháng, không do lỗi của doanh nghiệp, nên cần có cơ chế hỗ trợ, khoanh nợ hoặc giảm nghĩa vụ trả nợ nhằm giúp doanh nghiệp khôi phục sản xuất.
- Trường hợp 2, doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan khác làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn đến không có khả năng hoặc không trả được nợ vay (gốc, lãi) theo đúng Hợp đồng đã ký. Quy định này mở rộng phạm vi xem xét, đảm bảo tính linh hoạt, cho phép Quỹ đánh giá cụ thể từng tình huống và hỗ trợ doanh nghiệp khi bị tác động bởi yếu tố ngoài ý muốn (như biến động thị trường, thay đổi chính sách hoặc đối tác phá sản).
- Trường hợp 3, doanh nghiệp nhỏ và vừa có khoản nợ xấu theo kết quả phân loại nợ tại khoản 1 Điều 37 Nghị định số 39/2019/NĐ-CP ngày 10/5/2019 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa và không thuộc các trường 1 và 2 nêu trên. Trường hợp này nhằm xử lý các khoản nợ có rủi ro cao, giúp Quỹ chủ động ứng phó và bảo vệ an toàn tài chính, đồng thời có thể xem xét tái cơ cấu phù hợp để giảm thiểu thiệt hại.
- Trường hợp 4, doanh nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản theo luật định hiện hành. Khi doanh nghiệp không còn khả năng hoạt động, việc xử lý rủi ro giúp Quỹ hoàn tất nghĩa vụ tài chính, xác định rõ phần vốn mất mát và tránh kéo dài tình trạng nợ xấu.
Như vậy, các trường hợp được xem xét xử lý rủi ro trong hoạt động cho vay của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa được nêu rõ ràng, bao quát và mang tính thực tiễn cao. Những quy định này vừa bảo vệ quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp, vừa đảm bảo an toàn và hiệu quả quản lý vốn nhà nước. Qua đó, cơ chế xử lý rủi ro không chỉ là biện pháp tài chính mà còn thể hiện chính sách hỗ trợ thiết thực của Nhà nước trong việc đồng hành cùng doanh nghiệp vượt qua khó khăn và phục hồi sản xuất bền vững.
2. Xác định mức thiệt hại về vốn và tài sản được thực hiện như thế nào?
Trong quá trình vay vốn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể gặp phải những rủi ro bất khả kháng hoặc khách quan dẫn đến thiệt hại về vốn và tài sản. Để đảm bảo việc xử lý rủi ro được minh bạch, công bằng và có căn cứ thực tiễn,Điều 6 Thông tư số 14/2020/TT-BKHĐT đã cụ thể về cách xác định mức thiệt hại về vốn và tài sản, làm cơ sở cho việc xem xét, hỗ trợ hoặc xử lý nợ phù hợp như sau:
“Điều 6. Xác định mức thiệt hại về vốn và tài sản
1. Khi DNNVV vay vốn gặp rủi ro, Quỹ có trách nhiệm chủ trì, phối hợp các bên có liên quan gồm Quỹ, DNNVV và các cơ quan có chức năng, thẩm quyền (nếu có) tiến hành kiểm tra, đánh giá về rủi ro và lập Biên bản xác định mức thiệt hại về vốn và tài sản của DNNVV.
2. Biên bản xác nhận mức thiệt hại về vốn và tài sản của DNNVV phải có xác nhận của các bên có liên quan và cần phải có các nội dung như sự việc xảy ra, rủi ro xảy ra, nguyên nhân xảy ra rủi ro, mức thiệt hại về vốn và tài sản.
3. Mức thiệt hại về vốn và tài sản của DNNVV là giá trị quy đổi thành tiền về tài sản và vốn bị tổn thất thực tế tại thời điểm lập biên bản.
4. Quỹ được thuê các tổ chức, cá nhân có chức năng thẩm định để đánh giá mức thiệt hại về vốn và tài sản của DNNVV.”
Theo đó, khi doanh nghiệp nhỏ và vừa vay vốn gặp rủi ro, Quỹ có trách nhiệm chủ trì, phối hợp các bên có liên quan gồm Quỹ, doanh nghiệp nhỏ và vừa và các cơ quan có chức năng, thẩm quyền (nếu có) tiến hành kiểm tra, đánh giá về rủi ro và lập Biên bản xác định mức thiệt hại về vốn và tài sản của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Sự ghi nhận này bảo đảm tính khách quan, đa chiều trong việc đánh giá thiệt hại, tránh tình trạng xác định một chiều gây sai lệch hoặc thiếu công bằng cho doanh nghiệp
Bên cạnh đó, biên bản xác nhận mức thiệt hại về vốn và tài sản của doanh nghiệp nhỏ và vừa phải có xác nhận của các bên có liên quan và cần phải có các nội dung như sự việc xảy ra, rủi ro xảy ra, nguyên nhân xảy ra rủi ro, mức thiệt hại về vốn và tài sản. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng, giúp minh chứng rõ ràng về mức độ thiệt hại, làm nền tảng cho quyết định xử lý rủi ro, khoanh nợ hoặc hỗ trợ phù hợp.
Không chỉ vậy, đối với mức thiệt hại về vốn và tài sản của doanh nghiệp nhỏ và vừa được xác định là giá trị quy đổi thành tiền về tài sản và vốn bị tổn thất thực tế tại thời điểm lập biên bản. Việc quy đổi giúp định lượng thiệt hại chính xác, tạo điều kiện cho việc tính toán, so sánh và xác định trách nhiệm tài chính của các bên liên quan.
Ngoài ra, Quỹ được thuê các tổ chức, cá nhân có chức năng thẩm định để đánh giá mức thiệt hại về vốn và tài sản của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Với mục đích tăng cường tính minh bạch, chuyên nghiệp và độ tin cậy trong việc xác định thiệt hại, đồng thời hạn chế tiêu cực, đảm bảo việc xử lý rủi ro dựa trên cơ sở thực tế và khách quan.
Tóm lại, việc xác định mức thiệt hại về vốn và tài sản theo Điều 6 Thông tư 14/2020/TT-BKHĐT là bước quan trọng trong quy trình xử lý rủi ro của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Quy trình này không chỉ giúp lượng hóa thiệt hại một cách chính xác, mà còn đảm bảo tính công bằng, minh bạch và trách nhiệm của các bên. Qua đó, cơ chế này góp phần duy trì sự ổn định tài chính của Quỹ, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh một cách bền vững.
Trân trọng./.












