Nội dung sửa án:
Xét nội dung kháng cáo của bị cáo thấy rằng: Vợ chồng ông Triệu Thanh X1 sống cùng ông Triệu Văn H2, do tuổi cao nên việc làm ăn, phát triển kinh tế gia đình giao cho ông H2 quản lý, để trang trải khoản nợ của gia đình ông X1 đã nhất trí cho ông H2 ký hợp đồng trồng cây với ông H1 trên diện tích đất của hộ gia đình ông Triệu Thanh X1; sau khi được ông X1 nhất trí cho trồng cây trên các diện tích đất tại khu Đ, thôn N. Tháng 1/2018 ông Triệu Văn H2 và ông Vũ Văn H1 đã ký Giấy hợp đồng trồng cây có sự chứng kiến của Trưởng thôn ông Hoàng Đức Q và ông Triệu Văn H6 (là em ông H2, con của ông X1), trong hợp đồng thể hiện trồng cây trên đất được cấp sổ đỏ gia đình ông H2 số AO . 131801, A0 . 131802 diện tích 75.242m, thời hạn 04 năm, sau khi ký hợp đồng ông H2 và ông H1 đã phát trắng đồi, dọn sạch để trồng cây Keo, sau đó các cây Bồ đề và cây mọc tự nhiên trên diện tích đã phát để trồng Keo. Tại hợp đồng trồng rừng không thể hiện nội dung ông H1, ông H2 sẽ trồng những loại cây gì, trên thực tế, ông H1, ông H2 đã trồng Keo và chăm sóc các cây Bồ đề mọc tự nhiên trên đất, các cây Bồ đề này mọc trong diện tích đất rừng mà ông X1 đã nhất trí cho ông H1, ông H2 cùng trồng rừng (hộ gia đình ông Triệu Thanh X1 được cấp 02 sổ đỏ số AO . 131801, A0 . 131802 ngày 15/6/2009 diện tích là 75.242m), và cũng nhờ sự chăm sóc, phát tỉa của ông H1, ông H2 thì số cây Bồ đề này mới sinh trưởng, phát triển và giữ được đến tuổi khai thác. Vị trí các cây Bồ đề mà bị cáo trộm cắp đã được thể hiện tại biên bản khám nghiệm hiện trường, được định vị bằng máy GARMIN GPS MAP GS64s để xác định, các cây gỗ Bồ đề này nằm trên diện tích đất hộ gia đình ông X1 được cấp sổ đỏ và ông X1 nhất trí để ông H2, ông H1 hợp đồng trồng cây. Như vậy đủ căn cứ xác định các cây Bồ đề mà bị cáo Triệu Văn H đã cắt và bán ngày 02/5/2023, ngày 06/5/2023 thuộc quyền sở hữu của ông Triệu Văn H2 và ông Vũ Văn H1. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ để xử phạt bị cáo với mức án 01 năm 04 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên tại Cơ quan điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của bị cáo, tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo trình bày các cây gỗ Bồ đề mà bị cáo khai thác không thuộc quyền sở hữu của ông H1, ông H2, mà thuộc quyền sở hữu của bố đẻ bị cáo là ông Triệu Thanh X và ông X đã nhất trí cho bị cáo khai thác, Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo là chưa đầy đủ. Tại cấp phúc thẩm bị cáo cung cấp tình tiết mới bị cáo đã tác động anh trai là Triệu Văn H6 bồi thường cho ông Triệu Văn H2 số tiền là 9.671.000 đồng, xét thấy bị cáo có tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên, nhưng phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ là khắc phục một phần hậu quản, thành khẩn khai báo, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, là dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, nên chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2024/HS-ST ngày 19 tháng 3 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang giữ nguyên hình phạt, cho bị cáo Triệu Văn H được hưởng án treo, như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp pháp luật.