Nội dung sửa án:
Thấy rằng, Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo có nộp thêm một số tài liệu:
Đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị hại là ông Nguyễn Thành N, Đơn xin xác nhận hoàn ảnh gia đình khó khăn có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Đ; Huân chương kháng chiến của ông Lê Văn N1 (ông nội bị cáo); xác nhận khen thưởng của huyện Q, tỉnh Nghệ An về việc bà Hồ Thị Đ (bà nội bị cáo) được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến han ba.
Xét bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và phạm tội chưa gây thiệt hại; bị cáo khi phạm tội còn đang ở độ tuổi vị thành niên nhận thức pháp luật còn hạn chế nên khi lượng hình cần áp dụng chế định của người chưa thành niên cho bị cáo M. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo còn cung cấp thêm một số tài liệu, chứng cứ mới đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, để thể hiện tính nhân đạo và khoan hồng của pháp luật, Hội đồng xét xử thấy rằng không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo cải tạo tại chỗ dưới sự giám sát, giáo dục của địa phương và gia đình mà không gây nguy hiểm cho xã hội. không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội cũng đủ răng đe phòng ngừa tội phạm đồng thời cũng tạo điều kiện cho bị cáo làm việc phụ giúp cha mẹ nuôi các em ăn học. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo về giảm nhẹ hình phạt, chấp nhận kháng cáo của bị cáo xin được hưởng án treo sửa bản án sơ thẩm.