
Việc lập lý lịch tư pháp về án tích được quy định thực hiện như thế nào? Trường hợp nào không lập lý lịch tư pháp?
Luật sư cho tôi hỏi: Việc lập lý lịch tư pháp về án tích được pháp luật quy định cụ thể trong từng giai đoạn được các cơ quan có thẩm quyền cung cấp như thế nào? Đồng thời, trong thực tiễn xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, có những trường hợp nào pháp luật quy định không tiến hành lập lý lịch tư pháp?
MỤC LỤC
1. Việc lập lý lịch tư pháp về án tích được quy định thực hiện như thế nào?
2. Quy định về việc lập lý lịch tư pháp ở các giai đoạn cụ thể đối với người bị kết án
3. Trường hợp nào không lập lý lịch tư pháp?
Trả lời:
1. Việc lập lý lịch tư pháp về án tích được quy định thực hiện như thế nào?
Căn cứ theo Điều 26 Luật Lý lịch tư pháp năm 2009 và Điều 11 Thông tư số 06/2013/TT-BTP ngày 06/02/2013 của Bộ Tư pháp về việchướng dẫn việc quản lý, sử dụng và khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp quy định như sau:
“Điều 26. Lập lý lịch tư pháp
1. Sở Tư pháp nơi người bị kết án thường trú lập lý lịch tư pháp của người đó; trường hợp không xác định được nơi thường trú thì Sở Tư pháp nơi người bị kết án tạm trú lập lý lịch tư pháp.
lý lịch tư pháp được lập thành hai bản, một bản do Sở Tư pháp quản lý, một bản được chuyển đến Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia.
2. Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia lập và lưu giữ lý lịch tư pháp trong các trường hợp sau đây:
a) Không xác định được nơi thường trú hoặc nơi tạm trú của người bị kết án;
b) Người bị kết án được dẫn độ để thi hành án hoặc được chuyển giao để chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam;
c) Nhận được bản sao trích lục bản án hoặc trích lục án tích của công dân Việt Nam do Viện kiểm sát nhân dân tối cao cung cấp theo quy định tại Điều 17 của Luật này.
3. lý lịch tư pháp được lập trên cơ sở nguồn thông tin lý lịch tư pháp về án tích quy định tại Điều 15 của Luật này.
4. lý lịch tư pháp được lập riêng cho từng người bị kết án với các nội dung sau đây:
a) Họ, tên, giới tính, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, quốc tịch, nơi cư trú, số giấy chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu, họ, tên cha, mẹ, vợ, chồng của người đó;
b) Ngày, tháng, năm tuyên án, số bản án, Toà án đã tuyên bản án, tội danh, điều khoản luật được áp dụng, hình phạt chính, hình phạt bổ sung, nghĩa vụ dân sự trong bản án hình sự, án phí, tình trạng thi hành án.
5. Trường hợp một người bị kết án về nhiều tội và đã được tổng hợp hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự thì lý lịch tư pháp của người đó ghi rõ từng tội danh, điều khoản luật được áp dụng và hình phạt chung đối với các tội đó.”
và
“Điều 11. Lập lý lịch tư pháp
1. Việc lập lý lịch tư pháp đối với người bị Tòa án kết án kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2010 được thực hiện như sau:
a) Sở Tư pháp thực hiện lập lý lịch tư pháp theo quy định tại khoản 1, khoản 3, khoản 4, khoản 5 Điều 26 Luật Lý lịch tư pháp trên cơ sở thông tin lý lịch tư pháp do các cơ quan, tổ chức cung cấp;
b) Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia thực hiện lập lý lịch tư pháp theo quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4, khoản 5 Điều 26 Luật Lý lịch tư pháp trên cơ sở thông tin do Sở Tư pháp và các cơ quan khác có liên quan cung cấp.
2. Việc lập lý lịch tư pháp đối với người bị Tòa án kết án trước ngày 01 tháng 7 năm 2010 được thực hiện như sau:
a) Trường hợp Sở Tư pháp nhận được thông tin lý lịch tư pháp của người bị Tòa án Việt Nam kết án trước ngày 01 tháng 7 năm 2010 như quyết định thi hành án hình sự, giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù, đặc xá, đại xá, giấy xác nhận kết quả thi hành án dân sự hoặc các thông tin lý lịch tư pháp khác có liên quan đến người bị kết án, nhưng chưa nhận được bản án có hiệu lực pháp luật thì Sở Tư pháp lập lý lịch tư pháp trên cơ sở quyết định, giấy chứng nhận đã nhận được và ghi rõ nguồn thông tin để lập lý lịch tư pháp. Đồng thời, Sở Tư pháp đề nghị Tòa án đã xét xử vụ án cung cấp bản án có hiệu lực pháp luật theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 4 của Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP. Trên cơ sở bản án do Tòa án cung cấp, Sở Tư pháp thực hiện cập nhật bổ sung những thông tin còn thiếu vào lý lịch tư pháp đã được lập;
b) Trường hợp Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia nhận được thông tin lý lịch tư pháp của người bị Tòa án Việt Nam kết án trước ngày 01 tháng 7 năm 2010 mà không xác định được nơi thường trú hoặc nơi tạm trú thì Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia thực hiện lập lý lịch tư pháp trên cơ sở quyết định, giấy chứng nhận theo quy định tại điểm a khoản này;
c) Trường hợp kết quả tra cứu, xác minh của cơ quan công an, Tòa án, cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ Quốc phòng cho thấy người được cấp Phiếu lý lịch tư pháp “có án tích”, nhưng trong cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp chưa có lý lịch tư pháp của người đó, thì Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp nơi thực hiện cấp Phiếu lý lịch tư pháp tiến hành lập lý lịch tư pháp trên cơ sở kết quả tra cứu, xác minh của cơ quan Công an, Tòa án. Đồng thời, Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp đề nghị Tòa án đã xét xử vụ án cung cấp bản án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP. Trên cơ sở bản án do Tòa án cung cấp, Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp thực hiện bổ sung những thông tin còn thiếu vào lý lịch tư pháp đã được lập.
3. Việc lập lý lịch tư pháp trong trường hợp nhận được bản án phúc thẩm được thực hiện như sau:
a) Trường hợp bản án phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm thì Sở Tư pháp lập lý lịch tư pháp trên cơ sở bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, đồng thời cập nhật cả bản án xét xử phúc thẩm vào lý lịch tư pháp;
b) Trường hợp bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm thì Sở Tư pháp lập lý lịch tư pháp trên cơ sở bản án phúc thẩm đồng thời cập nhật cả bản án xét xử sơ thẩm vào lý lịch tư pháp;
c) Trường hợp bản án phúc thẩm hủy án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại thì Sở Tư pháp chưa lập lý lịch tư pháp mà chờ bản án có hiệu lực pháp luật để lập lý lịch tư pháp;
d) Trường hợp bản án phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án thì Sở Tư pháp không lập lý lịch tư pháp;
đ) Trường hợp nhận được quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm thì Sở Tư pháp lập lý lịch tư pháp trên cơ sở bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật;
e) Mã số bản án của bản án hình sự sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị cập nhật trong lý lịch tư pháp được sử dụng theo mã số của bản án hình sự phúc thẩm, thêm ký hiệu ST.
Ví dụ: Bản án hình sự phúc thẩm có mã số bản án trong lý lịch tư pháp là 31HM2011/00001/01 thì bản án hình sự sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị có mã số bản án là 31HM2011/00001/01ST.
4. Trường hợp nhận được bản án tuyên án tử hình nhưng chưa nhận được quyết định thi hành bản án hoặc quyết định thi hành án tử hình do Tòa án cung cấp thì Sở Tư pháp tiến hành lập lý lịch tư pháp của người bị kết án.
5. Trường hợp nhận được bản án xét xử phúc thẩm, bản án tuyên án tử hình đối với người bị kết án mà không xác định được nơi thường trú hoặc tạm trú thì Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia thực hiện lập lý lịch tư pháp theo quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều này.”
Có thể thấy rằng, trình tự lập lý lịch tư pháp được xác định rõ ràng theo từng trường hợp cụ thể đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền, bao gồm Sở Tư pháp và Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia được phân công trách nhiệm lập và lưu trữ lý lịch tư pháp theo phạm vi, chức năng mà pháp luật quy định.
Việc lập lý lịch tư pháp không chỉ dựa trên bản án có hiệu lực pháp luật, mà còn trên các quyết định, giấy tờ liên quan như quyết định thi hành án, đặc xá, giấy xác nhận kết quả thi hành án dân sự,... Trong trường hợp thiếu thông tin, cơ quan có thẩm quyền được phép tiến hành lập lý lịch tư pháp tạm thời, đồng thời chủ động phối hợp với các cơ quan khác như Tòa án, Công an hoặc cơ quan thuộc Bộ Quốc phòng để bổ sung dữ liệu còn thiếu.
Như vậy, quy định pháp luật đã xây dựng một cơ chế lập lý lịch tư pháp toàn diện, linh hoạt nhưng chặt chẽ, đảm bảo vừa phản ánh đúng thực trạng pháp lý của người bị kết án, vừa phục vụ hiệu quả cho công tác quản lý nhà nước, bảo vệ quyền con người và nhu cầu khai thác thông tin lý lịch tư pháp trong đời sống xã hội.
2. Quy định về việc lập lý lịch tư pháp ở các giai đoạn cụ thể đối với người bị kết án
Căn cứ theo Điều 10, 11 và 12 Nghị định số 111/2010/NĐ-CP ngày 23/11/2010 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật lý lịch tư pháp quy định như sau:
“Điều 10. Lập lý lịch tư pháp đối với người bị Tòa án kết án kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2010
Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp có trách nhiệm lý lịch tư pháp của những người bị Tòa án kết án kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2010 trên cơ sở thông tin lý lịch tư pháp về án tích do các cơ quan, tổ chức cung cấp theo quy định tại các điều từ Điều 16 đến Điều 21 của Luật Lý lịch tư pháp.”
“Điều 11. Lập lý lịch tư pháp đối với người bị kết án trước ngày 01 tháng 7 năm 2010
1. Trường hợp người bị Tòa án Việt Nam kết án trước ngày 01 tháng 7 năm 2010 nhưng từ ngày 01 tháng 7 năm 2010, Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp nhận được thông tin lý lịch tư pháp về án tích của người đó thì Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp gửi văn bản đề nghị các cơ quan có thẩm quyền cung cấp thông tin theo quy định tại khoản 2 Điều 9 của Nghị định này để lập lý lịch tư pháp của người bị kết án.
2. Sau khi nhận được bản sao bản án, các thông tin khác do Tòa án và các cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp theo quy định tại khoản 1 Điều này, Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp lập lý lịch tư pháp của người bị kết án.”
“Điều 12. Lập lý lịch tư pháp đối với người bị kết án trước ngày 01 tháng 7 năm 2010 và đã được Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp cấp Phiếu lý lịch tư pháp
1. Người bị Tòa án Việt Nam kết án trước ngày 01 tháng 7 năm 2010 nhưng từ ngày 01 tháng 07 năm 2010, Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp nhận được thông tin về tình trạng án tích của người đó do cơ quan Công an, Tòa án, cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ Quốc phòng cung cấp để cấp Phiếu lý lịch tư pháp thì Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp nơi thực hiện việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp tiến hành lập lý lịch tư pháp của người đó.
2. Trong trường hợp cần có thêm thông tin về án tích của người bị kết án để lập lý lịch tư pháp theo quy định tại khoản 1 Điều này thì Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp gửi văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền cung cấp thông tin theo quy định tại khoản 2 Điều 9 của Nghị định này.”
Việc lập lý lịch tư pháp đối với người bị kết án được quy định cụ thể theo từng giai đoạn, phù hợp với thời điểm Luật Lý lịch tư pháp năm 2009 có hiệu lực, nhằm đảm bảo tính toàn diện, đồng bộ và liên tục trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp quốc gia.
Từ những nội dung trên cho thấy, cơ chế lập lý lịch tư pháp được xây dựng theo hướng kế thừa và phát triển, không bỏ sót thông tin về người bị kết án trước khi luật có hiệu lực, đồng thời đảm bảo tính chính xác và đầy đủ trong từng hồ sơ. Điều này vừa bảo vệ quyền lợi chính đáng của công dân, vừa phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước về tư pháp một cách hiệu quả và đúng pháp luật.
3. Trường hợp nào không lập lý lịch tư pháp?
Quy định về các trường hợp không lập lý lịch tư pháp đã được thể hiện tại Điều 12 Thông tư số 06/2013/TT-BTP ngày 06/02/2013 của Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn việc quản lý, sử dụng và khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp như sau:
“Điều 12. Trường hợp không lập lý lịch tư pháp
Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp không lập lý lịch tư pháp của người bị kết án trong những trường hợp sau đây:
1. Nhận được quyết định đình chỉ việc chấp hành án phạt tù trong trường hợp người đang chấp hành án phạt tù chết, thông báo phạm nhân chết nhưng chưa nhận được bản án hoặc các quyết định, giấy chứng nhận khác có liên quan đến án tích của người đó.
2. Nhận được bản án có hiệu lực pháp luật tuyên bị cáo vô tội hoặc tuyên miễn trách nhiệm hình sự.
3. Nhận được quyết định thi hành bản án hoặc quyết định thi hành án tử hình nhưng chưa nhận được bản án hoặc các quyết định, giấy chứng nhận khác có liên quan đến án tích của người đó.”
Việc không lập lý lịch tư pháp trong một số trường hợp nhất định theo quy định pháp luật là cần thiết nhằm bảo đảm tính chính xác, hợp pháp và hiệu quả trong công tác xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Các quy định này đồng thời thể hiện rõ nguyên tắc chỉ lập lý lịch tư pháp khi có đầy đủ cơ sở pháp lý và thông tin xác thực về án tích của cá nhân liên quan.
Như vậy, quy định về các trường hợp không lập lý lịch tư pháp không chỉ giúp tránh việc ghi nhận sai lệch thông tin về tình trạng án tích mà còn góp phần bảo vệ quyền nhân thân, quyền được tôn trọng danh dự của cá nhân trong lĩnh vực tư pháp hình sự, phù hợp với tinh thần của Luật Lý lịch tư pháp năm 2009 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Trân trọng./.