Việc cung cấp thông tin giữa Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp và cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu khác được quy định như thế nào? Sự phối hợp cung cấp thông tin giữa Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp và cơ quan quản lý các cơ sở dữ liệu khác được thực hiện ra sao?

Việc cung cấp thông tin giữa Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp và cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu khác được quy định như thế nào? Sự phối hợp cung cấp thông tin giữa Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp và cơ quan quản lý các cơ sở dữ liệu khác được thực hiện ra sao?

Việc cung cấp thông tin giữa Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp và cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu khác được quy định như thế nào? Sự phối hợp cung cấp thông tin giữa Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp và cơ quan quản lý các cơ sở dữ liệu khác được thực hiện ra sao?

Luật sư cho tôi hỏi: Việc cung cấp và phối hợp trao đổi thông tin giữa Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp và các cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu khác được thực hiện như thế nào theo quy định pháp luật? Các nội dung phối hợp cụ thể, thời hạn cung cấp thông tin và nguyên tắc trong quá trình trao đổi thông tin này được quy định như thế nào? Mong được sự giải đáp từ Luật sư, xin cảm ơn!

MỤC LỤC

1. Việc cung cấp thông tin giữa Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp và cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu khác được quy định như thế nào?

2. Sự phối hợp cung cấp thông tin giữa Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp và cơ quan quản lý các cơ sở dữ liệu khác được thực hiện ra sao?

 

Trả lời:

1. Việc cung cấp thông tin giữa Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp và cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu khác được quy định như thế nào?

Căn cứ theo Điều 5 Nghị định số 111/2010/NĐ-CP quy định như sau:

“Điều 5. Cung cấp thông tin giữa Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp và cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu khác.

1. Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về dân cư, hộ tịch, hộ khẩu, chứng minh nhân dân có trách nhiệm cung cấp những thông tin cần thiết theo yêu cầu của Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp để xác định về nhân thân của người bị kết án, người bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã.

2. Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp có trách nhiệm cung cấp thông tin lý lịch tư pháp theo yêu cầu của cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về dân cư, hộ tịch, hộ khẩu, chứng minh nhân dân để phục vụ công tác của các cơ quan này theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp và Nghị định này.”

Từ quy định tại Điều 5 Nghị định số 111/2010/NĐ-CP, có thể thấy rằng: Việc cung cấp thông tin giữa Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp và các cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu khác được pháp luật quy định theo cơ chế phối hợp hai chiều, bảo đảm tính tương tác, kịp thời và chính xác, nhằm phục vụ hiệu quả công tác quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp và các lĩnh vực liên quan.

Cụ thể, các cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về dân cư, hộ tịch, hộ khẩu, chứng minh nhân dân có nghĩa vụ cung cấp thông tin nhân thân cần thiết theo yêu cầu của Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp, qua đó giúp xác minh chính xác đối tượng bị kết án hoặc bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã.

Ngược lại, Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp cũng có trách nhiệm cung cấp thông tin lý lịch tư pháp cho các cơ quan nêu trên để phục vụ công tác chuyên môn, hành chính của họ, đúng theo quy định tại Luật Lý lịch tư pháp và Nghị định số 111/2010/NĐ-CP.

Việc trao đổi dữ liệu này không chỉ tăng cường tính minh bạch và đồng bộ trong hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý nhà nước, mà còn góp phần quan trọng trong việc xác minh nhân thân, phòng ngừa rủi ro pháp lý, đảm bảo tính chính xác của thông tin phục vụ quản lý tư pháp, hành chính và xã hội. Đồng thời, quy định này thể hiện rõ nguyên tắc phối hợp liên thông giữa các cơ quan nhà nước trong việc quản lý lý lịch tư pháp, phù hợp với yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính và xây dựng chính phủ điện tử trong bối cảnh hội nhập và chuyển đổi số hiện nay.

2. Sự phối hợp cung cấp thông tin giữa Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp và cơ quan quản lý các cơ sở dữ liệu khác được thực hiện ra sao?

Căn cứ theo Điều 24 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP quy định như sau:

“Điều 24. Phối hợp cung cấp thông tin giữa Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp và cơ quan quản lý các cơ sở dữ liệu khác

Việc phối hợp cung cấp thông tin giữa Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp và cơ quan quản lý các cơ sở dữ liệu khác theo quy định tại Điều 5 và Điều 16 Nghị định số 111/2010/NĐ-CP được thực hiện như sau:

1. Trong quá trình cập nhật thông tin lý lịch tư pháp, trường hợp các thông tin về nhân thân như: họ, tên, ngày tháng năm sinh, số chứng minh nhân dân, nơi cư trú, họ tên cha, mẹ, vợ, chồng và thông tin khác về nhân thân của người bị kết án, người bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã có điểm chưa rõ ràng, chính xác thì Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp gửi văn bản cho các cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về dân cư, hộ tịch, hộ khẩu, chứng minh nhân dân để xác minh, làm rõ, cụ thể như sau:

a) Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về dân cư, cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch cung cấp thông tin về họ, tên, ngày tháng năm sinh, họ tên cha, mẹ, vợ, chồng và những thông tin khác về nhân thân của người bị kết án, người bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã.

Trong trường hợp có sự sai lệch thông tin về nhân thân của người bị kết án, người bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã thì Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp phối hợp với cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về dân cư, cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch để xác minh tính chính xác của thông tin;

b) Cơ quan đăng ký hộ tịch đã ban hành quyết định cho phép thay đổi, cải chính hộ tịch, cấp giấy chứng tử cho người từ đủ 14 tuổi trở lên thực hiện cung cấp thông tin về việc thay đổi, cải chính hộ tịch và chứng từ;

c) Cơ quan đăng ký, quản lý cư trú; cấp, quản lý chứng minh nhân dân thực hiện xác minh, cung cấp thông tin về nơi cư trú, số chứng minh nhân dân của người bị kết án, người bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã.

2. Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về dân cư; cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch; cơ quan đăng ký, quản lý cư trú; cấp, quản lý chứng minh nhân dân có nhiệm vụ xác minh, cung cấp thông tin cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp đã đề nghị trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị cung cấp thông tin. Đối với những trường hợp đặc biệt cần xác minh nhiều nơi được phép kéo dài thời hạn nhưng không quá 20 ngày làm việc.

3. Việc phối hợp cung cấp, xác minh, rà soát thông tin lý lịch tư pháp phải tuân thủ các quy định của pháp luật về lý lịch tư pháp, bảo vệ bí mật nhà nước và lưu trữ quốc gia.”

Từ quy định tại Điều 24 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP, có thể thấy việc phối hợp cung cấp thông tin giữa Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp và các cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu khác là một quy trình mang tính bắt buộc, được tổ chức theo nguyên tắc trách nhiệm liên thông, đảm bảo độ chính xác và kịp thời của thông tin lý lịch tư pháp.

Cụ thể, trong quá trình cập nhật thông tin, khi phát sinh những điểm chưa rõ ràng, mâu thuẫn hoặc sai lệch liên quan đến thông tin nhân thân của người bị kết án hoặc người bị cấm đảm nhiệm chức vụ, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp có quyền gửi yêu cầu bằng văn bản tới các cơ quan quản lý dân cư, hộ tịch, cư trú, chứng minh nhân dân để xác minh, bổ sung và hiệu đính thông tin. Các cơ quan này có trách nhiệm phối hợp và trả lời trong thời hạn 10 ngày làm việc, trong những trường hợp phức tạp được kéo dài nhưng không quá 20 ngày làm việc. Nội dung xác minh có thể bao gồm thông tin về họ tên, ngày sinh, nhân thân, nơi cư trú, số chứng minh nhân dân và các quyết định liên quan đến cải chính, thay đổi hộ tịch hoặc khai tử.

Bên cạnh đó, việc phối hợp này còn phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật về lý lịch tư pháp, bảo vệ bí mật nhà nước và bảo đảm yêu cầu lưu trữ quốc gia, từ đó vừa phục vụ hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về tư pháp, vừa bảo vệ quyền nhân thân và thông tin cá nhân của công dân.

Tóm lại, cơ chế phối hợp nêu trên không chỉ phản ánh sự liên kết chặt chẽ giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính tư pháp, mà còn góp phần quan trọng trong việc đảm bảo tính đầy đủ, chính xác và minh bạch của hệ thống cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp quốc gia, làm nền tảng cho các hoạt động xác minh nhân thân, xóa án tích, đăng ký kinh doanh, quản lý nhân sự và thực hiện quyền công dân một cách đúng pháp luật và công bằng.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý