TỘI XÂM PHẠM AN NINH LÃNH THỔ

(Theo Điều 111 Bộ luật Hình sự năm 2015)

1. Giải thích từ ngữ

Xâm phạm an ninh lãnh thổ được hiểu là hành vi xâm nhập lãnh thổ, làm sai lệch đường biên giới quốc gia hoặc bất kỳ hành động nào khác nhằm gây phương hại đến an ninh lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Tội danh

“Điều 111. Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ

Người nào xâm nhập lãnh thổ, có hành động làm sai lệch đường biên giới quốc gia hoặc có hành động khác nhằm gây phương hại cho an ninh lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt như sau:

1. Người tổ chức, người hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân;

2. Người đồng phạm khác, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 15 năm;

3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”

3. Cấu thành tội phạm

3.1. Khách thể của tội phạm

Tội phạm xâm phạm đến mối quan hệ liên quan đến an ninh quốc gia về chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia được pháp luật bảo vệ. Trong đó, lãnh thổ Việt Nam theo quy định của Hiến pháp 2013 bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và các hải đảo. Xâm phạm các bộ phận nói trên là xâm phạm an ninh, chủ quyền, sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Tội phạm này xâm phạm chủ quyền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được xácđịnh trong Hiến pháp Việt nam và các văn bản Luật quốc tế.

3.2. Mặt khách quan của tội phạm

- Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây sẽ bị coi là phạm tội xâm phạm an ninh lãnh thổ:

Xâm nhập lãnh thổ: Đây là hành vi vượt qua biên giới của Việt Nam, có thể mang theo vũ khí hoặc không, thường là thực hiện một cách bí mật, nhưng cũng có thể là công khai và thách thức. Biên giới có thể là trên đất liền, trên biển, hoặc trên không.

Làm sai lệch đường biên giới quốc gia: Hành vi này bao gồm việc thay đổi vị trí đúng của đường biên giới giữa Việt Nam và các quốc gia khác. Ví dụ: di dời các cột mốc biên giới để giảm diện tích lãnh thổ của Việt Nam hoặc thay đổi dòng chảy của một con sông được xem là biên giới tự nhiên.

Hành động khác gây phương hại cho an ninh lãnh thổ Việt Nam: Đây là các hành vi làm ảnh hưởng xấu đến an ninh lãnh thổ Việt Nam, như gây rối trật tự an ninh ở khu vực biên giới, tấn công lãnh thổ Việt Nam, phá hoại các công trình biên giới, hoặc đưa các phương tiện bay, vật thể, chất độc hại qua biên giới, gây nguy hại cho quốc phòng, an ninh, kinh tế, sức khỏe, môi trường, và an toàn xã hội.

Lưu ý: Tội phạm xem là hoàn thành kể từ khi chủ thể thực hiện một trong các hành vi kể trên mà không cần hậu quả.

- Về mặt hậu quả: làm sai lệch đường biên giới quốc gia hoặc gây phương hại cho an ninh lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

3.3. Mặt chủ quan của tội phạm

- Về lỗi: người thực hiện hành vi vi phạm có lỗi cố ý trực tiếp. Điều này có nghĩa là người phạm tội hoàn toàn nhận thức được rằng hành vi của mình sẽ xâm phạm đến chủ quyền quốc gia của Việt Nam. Họ hiểu rõ rằng hành vi đó sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh quốc gia, đe dọa chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Dù đã nhìn thấy trước những hậu quả này nhưng họ vẫn mong muốn và quyết tâm thực hiện hành vi với ý định rõ ràng là gây ra thiệt hại đó.

- Mục đích là dấu hiệu bắt buộc: hành vi phạm tội được thực hiện với mục đích cụ thể là gây tổn hại đến an ninh quốc gia của Việt Nam. Người phạm tội có chủ đích làm cho tình hình an ninh ở các khu vực biên giới, bao gồm cả trên đất liền và trên biển, trở nên phức tạp và mất ổn định. Chính mục đích này là yếu tố không thể thiếu trong việc xác định tội phạm, thể hiện rõ ràng ý định của người thực hiện hành vi là nhằm phá hoại sự ổn định và an ninh của quốc gia.

3.4. Chủ thể của tội phạm

Người phạm tội xâm phạm an ninh lãnh thổ có thể là bất kỳ ai, không phân biệt quốc tịch hay tình trạng pháp lý. Điều này có nghĩa là người phạm tội có thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài hoặc người không có quốc tịch. Không có sự phân biệt hay giới hạn nào về quốc tịch khi xác định người phạm tội trong trường hợp này.

Người phạm tội phải từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Điều này bao gồm năng lực nhận thức tức là khả năng hiểu biết về hành vi của mình và những hậu quả mà hành vi đó có thể gây ra. Đồng thời, người phạm tội cũng phải có năng lực làm chủ hành vi tức là khả năng kiểm soát và quyết định hành động của mình một cách tự do và có ý thức.

Nếu thiếu một trong hai năng lực này – năng lực nhận thức hoặc năng lực làm chủ hành vi thì người đó sẽ bị coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc bị hạn chế năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Trong những trường hợp này, người phạm tội có thể được loại trừ trách nhiệm hình sự hoặc giảm nhẹ trách nhiệm theo quy định của Điều 21 Bộ luật Hình sự. Điều này có nghĩa là, nếu một người không có đủ khả năng hiểu biết hoặc kiểm soát hành vi của mình, pháp luật có thể xem xét để miễn trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng những biện pháp xử lý khác phù hợp với tình trạng thực tế của người đó.

Trân trọng./.

Góp ý