
Quy trình thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Gần đây tôi có đọc báo thấy nhiều địa phương đã thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn vốn vay. Tôi thấy đây là chính sách rất thiết thực, nhưng thật sự chưa rõ quá trình để hình thành một Quỹ như vậy được tiến hành ra sao, gồm những bước nào và do cơ quan nào thực hiện? Mong luật sư giải đáp thắc mắc để tôi được rõ, xin cảm ơn.
MỤC LỤC
1. Đề án thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng bao gồm những nội dung nào?
2. Quy trình thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng được quy định ra sao?
Trả lời:
1. Đề án thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng bao gồm những nội dung nào?
Khi có nhu cầu thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng tại địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải xây dựng Đề án thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng để trình lên Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận. Tuy nhiên, để Đề án này có khả năng được chấp thuận thì phải đảm bảo các nội dung cơ bản tại khoản 1 Điều 6 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (sau đây gọi tắt là “Nghị định số 34/2018/NĐ-CP”) như sau:
“Điều 6. Quy trình thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng
1. Khi có nhu cầu thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng tại địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng Đề án thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng, trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận. Đề án thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng bao gồm các nội dung cơ bản sau:
a) Sự cần thiết thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng, khả năng đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương; quy mô, phạm vi, nội dung hoạt động và tác động của việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng đến sự phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương;
b) Phương án và nguồn vốn hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng, trong đó nêu rõ về nguồn đóng góp vốn điều lệ đã được bố trí trong nguồn chi đầu tư phát triển của ngân sách địa phương (thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn được cấp có thẩm quyền phê duyệt) đảm bảo theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị định này;
c) Dự thảo Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng phù hợp với quy định tại Nghị định này và quy định của pháp luật liên quan;
d) Danh sách các thành viên dự kiến là Chủ tịch, Kiểm soát viên, Giám đốc, Phó giám đốc và Kế toán trưởng Quỹ bảo lãnh tín dụng, đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện quy định tại Nghị định này;
đ) Thuyết minh cụ thể về cơ cấu tổ chức và bộ máy hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng theo quy định tại Nghị định này;
e) Phương án tổ chức điều hành hoạt động Quỹ bảo lãnh tín dụng theo quy định tại Điều 14 Nghị định này;
g) Phương án tài chính và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng dự kiến trong vòng 05 năm sau khi thành lập và hiệu quả hoạt động dự kiến của Quỹ để chứng minh tính khả thi của việc thành lập.”
Dẫn chiếu đến khoản 1 Điều 5, Điều 14 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP quy định như sau:
“Điều 5. Điều kiện thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng
1. Vốn điều lệ thực có tối thiểu tại thời điểm thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng là 100 (một trăm) tỷ đồng do ngân sách cấp tỉnh cấp.”
“Điều 14. Tổ chức điều hành hoạt động Quỹ bảo lãnh tín dụng
1. Việc tổ chức điều hành hoạt động Quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện theo một trong hai phương thức sau:
a) Thành lập bộ máy tổ chức quản lý điều hành độc lập Quỹ bảo lãnh tín dụng tại địa phương;
b) Ủy thác cho Quỹ tài chính nhà nước tại địa phương tổ chức quản lý, điều hành hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng.
2. Trường hợp hoạt động theo mô hình ủy thác tại điểm b khoản 1 Điều này:
a) Quỹ bảo lãnh tín dụng phải được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập theo quy định tại Điều 5 và Điều 6 Nghị định này;
b) Việc ủy thác cho Quỹ tài chính địa phương tổ chức quản lý điều hành Quỹ bảo lãnh tín dụng phải thực hiện thông qua văn bản ủy thác giữa hai bên, trong đó nêu rõ các nội dung: Phạm vi ủy thác, tổ chức bộ máy (trong đó quy định rõ các nhân sự của Quỹ gồm: Chủ tịch, Giám đốc và Kiểm soát viên); nội dung ủy thác; quy trình ủy thác; trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn giữa bên ủy thác và bên nhận ủy thác, rủi ro phát sinh, trách nhiệm của các bên và các nội dung khác có liên quan.
3. Căn cứ tình hình thực tế tại từng địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định lựa chọn phương thức tổ chức, hoạt động Quỹ bảo lãnh tín dụng tại địa phương và nội dung văn bản ủy thác theo quy định tại Điều này cho phù hợp, đảm bảo hiệu quả, đúng quy định tại Nghị định này và pháp luật có liên quan.”
Cụ thể, những nội dung cơ bản sau cần được bảo đảm trong Đề án thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng:
- Sự cần thiết thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng, khả năng đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương; quy mô, phạm vi, nội dung hoạt động và tác động của việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng đến sự phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương;
- Phương án và nguồn vốn hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng, trong đó nêu rõ về nguồn đóng góp vốn điều lệ đã được bố trí trong nguồn chi đầu tư phát triển của ngân sách địa phương (thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn được cấp có thẩm quyền phê duyệt) đảm bảo vốn điều lệ thực có tối thiểu tại thời điểm thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng là 100 (một trăm) tỷ đồng do ngân sách cấp tỉnh cấp;
- Dự thảo Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng phù hợp với quy định tại Nghị định số 34/2018/NĐ-CP và quy định của pháp luật liên quan;
- Danh sách các thành viên dự kiến là Chủ tịch, Kiểm soát viên, Giám đốc, Phó giám đốc và Kế toán trưởng Quỹ bảo lãnh tín dụng, đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện quy định tại Nghị định số 34/2018/NĐ-CP;
- Thuyết minh cụ thể về cơ cấu tổ chức và bộ máy hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng theo ghi nhận tại Nghị định số 34/2018/NĐ-CP;
- Phương án tổ chức điều hành hoạt động Quỹ bảo lãnh tín dụng theo luật định;
- Phương án tài chính và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng dự kiến trong vòng 05 năm sau khi thành lập và hiệu quả hoạt động dự kiến của Quỹ để chứng minh tính khả thi của việc thành lập.
Nhìn chung, các nội dung được quy định phải có trong Đề án thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng có ý nghĩa bảo đảm cho Quỹ bảo lãnh tín dụng khi ra đời sẽ được chuẩn bị một cách đầy đủ và toàn diện về nền tảng. Bên cạnh đó còn đảm bảo sự hình thành Quỹ không mang tính hình thức mà được xây dựng trên cơ sở khoa học, có tính khả thi và gắn với yêu cầu phát triển thực tiễn. Qua đó, Quỹ bảo lãnh tín dụng không chỉ đủ điều kiện pháp lý để hoạt động mà còn có định hướng rõ ràng, phù hợp với lợi ích kinh tế, xã hội của địa phương và bảo đảm hiệu quả lâu dài.
2. Quy trình thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng được quy định ra sao?
Tuân theo quy trình thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng là bước đi quan trọng nhằm bảo đảm việc hình thành Quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự và có sự chuẩn bị toàn diện. Vậy nên, khoản 2, 3, 4, 5 và 6 Điều 6 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP đã quy định như sau:
“Điều 6. Quy trình thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng
2. Trường hợp đủ điều kiện thành lập và việc thành lập là khả thi, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét phê duyệt các nội dung về thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng gồm: vốn điều lệ và nguồn hình thành vốn điều lệ, vốn huy động, mô hình và cơ cấu tổ chức, bộ máy hoạt động và các nội dung khác liên quan đến Quỹ bảo lãnh tín dụng theo yêu cầu quản lý của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
3. Căn cứ Đề án thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng quy định tại khoản 1 Điều này đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành Quyết định thành lập, phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng.
4. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ban hành Quyết định thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh gửi thông báo cho Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kèm theo Quyết định thành lập và Quyết định ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng.
5. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ban hành Quyết định thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng, Quỹ bảo lãnh tín dụng có trách nhiệm thông báo công khai việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng.
6. Trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày ban hành Quyết định thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng, ngân sách địa phương có trách nhiệm cấp đủ vốn điều lệ theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị định này.”
* Lưu ý: Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với Bộ Tài chính được hợp nhất thành Bộ Tài chính (căn cứ mục 2.3 Phần II Kết luận số 121-KL/TW ngày 24/01/2025 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và khoản 6 Điều 1 Nghị quyết số 176/2025/QH15 ngày 18/02/2025 của Quốc hội về cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khoá XV).
Như vậy, nếu đã đủ điều kiện thành lập và việc thành lập là khả thi, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh sẽ xem xét phê duyệt các nội dung về thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng gồm vốn điều lệ và nguồn hình thành vốn điều lệ, vốn huy động, mô hình và cơ cấu tổ chức, bộ máy hoạt động và các nội dung khác liên quan đến Quỹ bảo lãnh tín dụng theo yêu cầu quản lý của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Tiếp đó, trên cơ sở Đề án thành lập đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành Quyết định thành lập, phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ban hành Quyết định thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải gửi thông báo đến Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kèm theo Quyết định thành lập và Quyết định ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Cũng trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ban hành Quyết định thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng nói trên, Quỹ bảo lãnh tín dụng có trách nhiệm thông báo công khai việc thành lập trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh đó, trong vòng 90 ngày kể từ ngày ban hành Quyết định thành lập, ngân sách địa phương phải cấp đủ vốn điều lệ theo quy định để bảo đảm Quỹ bảo lãnh tín dụng có điều kiện đi vào hoạt động.
Từ những phân tích trên ta thấy được rằng điều khoản này có ý nghĩa khẳng định việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng phải gắn với sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền ở địa phương, đồng thời bảo đảm sự phối hợp với các bộ, ngành trung ương. Việc đặt ra thời hạn cụ thể cho từng bước từ phê duyệt, ban hành quyết định, thông báo công khai cho đến việc cấp vốn điều lệ cho thấy yêu cầu minh bạch, kịp thời và trách nhiệm rõ ràng của các chủ thể liên quan. Nhờ vậy, Quỹ bảo lãnh tín dụng khi được thành lập sẽ có nền tảng pháp lý đầy đủ, nguồn lực tài chính được bảo đảm, tạo điều kiện thuận lợi để nhanh chóng đi vào hoạt động và thực hiện hiệu quả vai trò hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Trân trọng./.