
Quản lý rủi ro là gì? Quản lý rủi ro đối với doanh nghiệp giải thể, phá sản, bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, ngừng hoạt động, tạm ngừng hoạt động, mất tích được thực hiện như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Công ty chúng tôi đang tạm ngừng hoạt động do các vấn đề về vận hành. Gần đây, chúng tôi đang dự định nhập khẩu một lô hàng nhằm phục vụ cho việc mở cửa trở lại của công ty nhưng phía cơ quan hải quan không chấp nhận đăng ký tờ khai hải quan của chúng tôi với lý do liên quan đến quản lý rủi ro. Tuy nhiên, hiện tôi không biết quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề này là như thế nào. Vì vậy, tôi muốn hỏi Luật sư, quản lý rủi ro đối với doanh nghiệp giải thể tạm ngừng hoạt động được thực hiện như thế nào? Kính mong Luật sư giải đáp thắc mắc giúp tôi.
MỤC LỤC
Trả lời:
1. Quản lý rủi ro là gì?
Khi xuất hiện rủi ro, việc quản lý rủi ro là điều cần thiết nhằm hạn chế khả năng lan rộng và khó kiểm soát của rủi ro. Theo đó, trong lĩnh vực hải quan có định nghĩa quản lý rủi ro tại khoản 18 Điều 4 Luật Hải quan 2014 để làm rõ nội hàm của thuật ngữ này như sau:
“Điều 4. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
…
18. Quản lý rủi ro là việc cơ quan hải quan áp dụng hệ thống các biện pháp, quy trình nghiệp vụ nhằm xác định, đánh giá và phân loại mức độ rủi ro, làm cơ sở bố trí, sắp xếp nguồn lực hợp lý để kiểm tra, giám sát và hỗ trợ các nghiệp vụ hải quan khác có hiệu quả.
…”
Từ định nghĩa trên có thể thấy rằng, quản lý rủi ro trong hoạt động hải quan đang nhấn mạnh việc sử dụng có hệ thống các biện pháp, quy trình mang tính nghiệp vụ với mục đích xác định, đánh giá và phân loại mức độ rủi ro. Việc đạt được mục đích này, một mặt, không chỉ giúp cơ quan hải quan biết đối tượng nào cần kiểm tra, giám sát kỹ càng hơn mà mặt khác, còn làm cơ sở để bố trí và sử dụng nguồn lực một cách hợp lý, đảm bảo kiểm soát hiệu quả, chính xác, giảm lãng phí nhân lực và thời gian trong việc thực hiện các nghiệp vụ hải quan.
Như vậy, định nghĩa cung cấp cơ sở pháp lý cho việc triển khai quản lý rủi ro trong hải quan, giúp cơ quan hải quan tăng cường hiệu quả kiểm tra, giám sát và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Đồng thời, việc áp dụng quản lý rủi ro một cách khoa học còn tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tuân thủ pháp luật, giảm thủ tục không cần thiết, đảm bảo phân bổ nguồn lực công bằng và minh bạch, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực hải quan.
2. Quản lý rủi ro đối với doanh nghiệp giải thể, phá sản, bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, ngừng hoạt động, tạm ngừng hoạt động, mất tích được thực hiện như thế nào?
Quản lý rủi ro đối với doanh nghiệp giải thể, phá sản, bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, ngừng hoạt động, tạm ngừng hoạt động, mất tích được thực hiện theo quy định tại Điều 14 Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015 của Bộ Tài chính quy định về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu như sau:
“Điều 14. Quản lý rủi ro đối với doanh nghiệp giải thể, phá sản, bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, ngừng hoạt động, tạm ngừng hoạt động, mất tích
1. Cơ quan hải quan không chấp nhận đăng ký tờ khai hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh của doanh nghiệp đã giải thể, phá sản, đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, ngừng hoạt động, tạm ngừng hoạt động, mất tích theo xác nhận của cơ quan thuế, trừ các trường hợp pháp luật có quy định khác.
Các trường hợp doanh nghiệp đã tạm ngừng hoạt động hoặc mất tích theo xác nhận của cơ quan thuế, để được chấp nhận đăng ký tờ khai làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh phải có xác nhận của cơ quan thuế về việc doanh nghiệp đã đăng ký hoạt động trở lại và đã thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật thuế và kế toán.
2. Tổng cục Hải quan phối hợp với Tổng cục Thuế thu thập thông tin, xây dựng, quản lý danh sách doanh nghiệp giải thể, phá sản, bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, ngừng hoạt động, tạm ngừng hoạt động, mất tích để phục vụ quản lý rủi ro theo nội dung quy định tại Điều này.”
* Lưu ý: Tổng cục Hải quan được tổ chức lại thành Cục Hải quan (căn cứ Mục 1 Phần III Báo cáo số 219/BC-BNV ngày 11/01/2025 về việc bổ sung, hoàn thiện phương án sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của Chính phủ và khoản 25 Điều 3 Nghị định số 29/2025/NĐ-CP ngày 24/02/2025 của Chính phủ về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính được sửa đổi bởi khoản 5 Điều 1 Nghị định số 166/2025/NĐ-CP ngày 30/6/2025 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 29/2025/NĐ-CP ngày 24/02/2025 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính).
** Lưu ý: Tổng cục Thuế đã được đổi tên thành Cục Thuế (căn cứ Mục 1 Phần III Báo cáo số 219/BC-BNV ngày 11/01/2025 về việc bổ sung, hoàn thiện phương án sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của Chính phủ, khoản 24 Điều 3 Nghị định số 29/2025/NĐ-CP ngày 24/02/2025 của Chính phủ về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính được sửa đổi bởi khoản 5 Điều 1 Nghị định số 166/2025/NĐ-CP ngày 30/6/2025 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 29/2025/NĐ-CP ngày 24/02/2025 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính).
Qua điều luật trên, ta thấy tính rõ ràng của pháp luật hải quan về quản lý rủi ro đối với các doanh nghiệp không còn hoạt động hợp pháp, bao gồm doanh nghiệp đã giải thể, phá sản, bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, ngừng hoạt động, tạm ngừng hoạt động hoặc mất tích. Theo đó, cơ quan hải quan sẽ không chấp nhận đăng ký tờ khai hải quan của những doanh nghiệp này nhằm ngăn chặn rủi ro liên quan đến gian lận thương mại, buôn lậu, trốn thuế hoặc các vi phạm pháp luật khác.
Tuy nhiên, trường hợp doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động hoặc mất tích muốn thực hiện thủ tục hải quan thì vẫn được chấp nhận với điều kiện phải được cơ quan thuế xác nhận hoạt động trở lại và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ pháp lý về thuế và kế toán.
Ngoài ra, điều luật cũng đưa ra cơ chế phối hợp giữa Cục Hải quan và Cục Thuế để cập nhật và quản lý danh sách doanh nghiệp thuộc diện này, đảm bảo thông tin chính xác và kịp thời.
Từ đó, quy định góp phần tăng tính minh bạch và an toàn trong quản lý xuất nhập khẩu, hạn chế rủi ro phát sinh từ các doanh nghiệp không còn hoạt động hợp pháp. Bên cạnh đó, việc phối hợp giữa cơ quan hải quan và cơ quan thuế tạo ra cơ chế kiểm soát chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp, giảm thiểu gian lận và đảm bảo tuân thủ pháp luật. Làm cơ sở pháp lý để áp dụng quản lý rủi ro một cách chủ động, khoa học, tăng hiệu quả công tác giám sát hải quan.
Trân trọng./.











