Nhà đầu tư trong lĩnh vực giáo dục là ai? Đầu tư, phát triển giáo dục và xã hội hóa sự nghiệp giáo dục được thực hiện như thế nào? Việc lợi dụng hoạt động giáo dục bị cấm được quy định ra sao?

Nhà đầu tư trong lĩnh vực giáo dục là ai? Đầu tư, phát triển giáo dục và xã hội hóa sự nghiệp giáo dục được thực hiện như thế nào? Việc lợi dụng hoạt động giáo dục bị cấm được quy định ra sao?

Nhà đầu tư trong lĩnh vực giáo dục là ai? Đầu tư, phát triển giáo dục và xã hội hóa sự nghiệp giáo dục được thực hiện như thế nào? Việc lợi dụng hoạt động giáo dục bị cấm được quy định ra sao?

Luật sư cho tôi hỏi: Khái niệm “nhà đầu tư” trong lĩnh vực giáo dục được hiểu như thế nào theo quy định pháp luật hiện hành? Các chính sách liên quan đến hoạt động đầu tư, phát triển giáo dục, cũng như cơ chế xã hội hóa sự nghiệp giáo dục được triển khai ra sao? Những hành vi lợi dụng hoạt động giáo dục bị pháp luật nghiêm cấm được quy định cụ thể như thế nào?

MỤC LỤC

1. Nhà đầu tư trong lĩnh vực giáo dục là ai?

2. Đầu tư, phát triển giáo dục và xã hội hóa sự nghiệp giáo dục được thực hiện như thế nào?

2.1. Đầu tư, phát triển giáo dục

2.2. Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục

3. Việc lợi dụng hoạt động giáo dục bị cấm được quy định ra sao?

 

Trả lời:

1. Nhà đầu tư trong lĩnh vực giáo dục là ai?

Căn cứ theo Điều 5 Luật Giáo dục 2019 quy định như sau:

“Điều 5. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

11. Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục bằng nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước gồm nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.”

Thông qua quy định trên, có thể thấy nhà đầu tư trong lĩnh vực giáo dục được xác định là tổ chức hoặc cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư bằng nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước, nhằm góp phần phát triển các cơ sở giáo dục và dịch vụ giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân. Khái niệm này bao gồm cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, thể hiện rõ chủ trương xã hội hóa giáo dục và mở rộng hợp tác, thu hút nguồn lực xã hội trong việc phát triển giáo dục.

Việc quy định rõ khái niệm "nhà đầu tư" trong luật không chỉ tạo cơ sở pháp lý minh bạch cho các chủ thể tham gia đầu tư vào lĩnh vực giáo dục mà còn bảo đảm tính thống nhất và phân biệt rạch ròi giữa nguồn lực đầu tư công và nguồn lực xã hội hóa. Điều này góp phần quan trọng trong việc quản lý, giám sát hoạt động đầu tư, đảm bảo chất lượng, mục tiêu giáo dục, đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế, kể cả khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài, tích cực tham gia vào sự nghiệp phát triển giáo dục một cách bền vững, hiệu quả, phù hợp với định hướng hội nhập quốc tế.

2. Đầu tư, phát triển giáo dục và xã hội hóa sự nghiệp giáo dục được thực hiện như thế nào?

2.1. Đầu tư, phát triển giáo dục

Căn cứ theo Điều 17 và Điều 4 Luật Giáo dục 2019 quy định như sau:

“Điều 17. Đầu tư cho giáo dục

1. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Đầu tư trong lĩnh vực giáo dục là hoạt động đầu tư thuộc ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và được ưu đãi, hỗ trợ đầu tư theo quy định của pháp luật.

2. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; ưu tiên đầu tư cho phổ cập giáo dục, phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, địa bàn có khu công nghiệp.

Nhà nước khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục.

3. Ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục.”

“Điều 4. Phát triển giáo dục

1. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.

2. Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ khoa học, công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh; thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; bảo đảm cân đối cơ cấu ngành nghề, trình độ, nguồn nhân lực và phù hợp vùng miền; mở rộng quy mô trên cơ sở bảo đảm chất lượng và hiệu quả; kết hợp giữa đào tạo và sử dụng.

3. Phát triển hệ thống giáo dục mở, xây dựng xã hội học tập nhằm tạo cơ hội để mọi người được tiếp cận giáo dục, được học tập ở mọi trình độ, mọi hình thức, học tập suốt đời.”

Có thể thấy rằng phát triển giáo dục không chỉ là quốc sách hàng đầu mà còn là một lĩnh vực đầu tư có tính chiến lược, gắn liền với sự phát triển bền vững của đất nước về kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ, quốc phòng và an ninh. Luật xác định giáo dục là một ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, đồng thời là lĩnh vực được ưu tiên và hưởng chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, qua đó thể hiện rõ quyết tâm của Nhà nước trong việc huy động và phát huy mọi nguồn lực cho phát triển giáo dục.

Với quan điểm lấy đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, Nhà nước không chỉ giữ vai trò chủ đạo thông qua nguồn ngân sách nhà nước, mà còn có trách nhiệm thu hút các nguồn đầu tư ngoài ngân sách bằng cách khuyến khích, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài, kể cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Đặc biệt, Nhà nước dành ưu tiên đầu tư cho giáo dục phổ cập, giáo dục vùng khó khăn, miền núi, hải đảo và khu vực có khu công nghiệp, bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục, thu hẹp khoảng cách vùng miền.

Mặt khác, yêu cầu phát triển giáo dục còn phải gắn với nhu cầu của thị trường lao động, sự đổi mới khoa học – công nghệ và thực hiện đồng thời các nguyên tắc chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hiệu quả hóa. Việc xây dựng hệ thống giáo dục mở và xã hội học tập cho thấy định hướng giáo dục Việt Nam đang chuyển mạnh sang mô hình học tập suốt đời, tạo điều kiện cho mọi người dân có cơ hội học tập liên tục, linh hoạt, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển.

2.2. Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục

Căn cứ theo Điều 16 Luật Giáo dục 2019 quy định như sau:

“Điều 16. Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục

1. Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân.

2. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục. Thực hiện đa dạng hóa các loại hình cơ sở giáo dục và hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục; khuyến khích phát triển cơ sở giáo dục dân lập, tư thục đáp ứng nhu cầu xã hội về giáo dục chất lượng cao.

3. Tổ chức, gia đình và cá nhân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với cơ sở giáo dục thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh.

4. Tổ chức, cá nhân có thành tích trong sự nghiệp giáo dục được khen thưởng theo quy định của pháp luật.”

Theo quy định trên có thể thấy việc xã hội hóa sự nghiệp giáo dục được xác định là một nguyên tắc và định hướng phát triển mang tính chiến lược, trong đó giáo dục là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân, không phải là nhiệm vụ riêng của bất kỳ cơ quan hay tổ chức nào. Quan điểm này thể hiện sự gắn kết chặt chẽ giữa vai trò quản lý nhà nước và trách nhiệm của toàn xã hội trong việc xây dựng và phát triển nền giáo dục quốc dân.

Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển giáo dục thông qua việc quy hoạch hệ thống, ban hành chính sách, bảo đảm nguồn lực, nhưng đồng thời thực hiện đa dạng hóa loại hình cơ sở giáo dục, hình thức giáo dục và tạo điều kiện thuận lợi để huy động các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư, vận hành, hỗ trợ hoạt động giáo dục. Sự khuyến khích phát triển cơ sở giáo dục dân lập và tư thục, đặc biệt là các mô hình chất lượng cao, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của xã hội, phản ánh xu hướng mở rộng quyền lựa chọn và tiếp cận giáo dục cho người học trong bối cảnh đổi mới và hội nhập.

Ngoài ra, xã hội hóa giáo dục không chỉ nằm ở khía cạnh tài chính hay cơ sở vật chất mà còn bao hàm trách nhiệm chung của tổ chức, gia đình và cá nhân trong việc phối hợp với cơ sở giáo dục thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường học tập an toàn, lành mạnh, hỗ trợ toàn diện cho người học. Đây là yếu tố then chốt trong việc hình thành một xã hội học tập và nâng cao chất lượng giáo dục bền vững.

Đặc biệt, các tổ chức, cá nhân có thành tích đóng góp cho sự nghiệp giáo dục sẽ được ghi nhận và khen thưởng theo quy định pháp luật, từ đó tạo động lực và khuyến khích các chủ thể tích cực tham gia vào quá trình đổi mới giáo dục.

3. Việc lợi dụng hoạt động giáo dục bị cấm được quy định ra sao?

Căn cứ theo Điều 21 Luật Giáo dục 2019 quy định như sau:

“Điều 21. Cấm lợi dụng hoạt động giáo dục

1. Cấm lợi dụng hoạt động giáo dục để xuyên tạc chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, phá hoại thuần phong mỹ tục, truyền bá mê tín, hủ tục, lôi kéo người học vào các tệ nạn xã hội.

2. Cấm lợi dụng hoạt động giáo dục vì mục đích vụ lợi.”

Theo đó, việc lợi dụng hoạt động giáo dục bị pháp luật nghiêm cấm nhằm bảo đảm tính trong sáng, lành mạnh, đúng đắn về tư tưởng, mục tiêu và nội dung của quá trình giáo dục. Đây là quy định có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ nhằm bảo vệ môi trường giáo dục an toàn và tích cực, mà còn góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội và thuần phong mỹ tục trong đời sống xã hội. Trong đó giáo dục là quyền và nghĩa vụ của công dân, không bị biến tướng thành công cụ phục vụ lợi ích cá nhân, tổ chức trái pháp luật.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý