
Người mất tích có được hưởng thừa kế di sản không? Khi có người mất tích thì việc phân chia di sản thừa kế được thực hiện như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Cha tôi vừa qua đời và để lại di sản là một căn nhà cùng một khoản tiền tiết kiệm. Theo hàng thừa kế, tôi và hai người anh trai sẽ được hưởng di sản. Tuy nhiên, một người anh của tôi đã bị Tòa án tuyên bố mất tích cách đây hơn một năm. Vậy, trong trường hợp này, anh tôi có được hưởng di sản thừa kế không? Việc phân chia di sản sẽ được thực hiện như thế nào?
MỤC LỤC
1. Người mất tích được hiểu như thế nào?
2. Người mất tích có được hưởng thừa kế di sản không?
3. Khi có người mất tích thì việc phân chia di sản thừa kế được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
1. Người mất tích được hiểu như thế nào?
Căn cứ khoản 1 Điều 68 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
“Điều 68. Tuyên bố mất tích
1. Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.
Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.”
Theo đó, khi một người bỏ đi biệt tích trong thời gian dài (từ 02 năm trở lên) mà không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp tìm kiếm nhưng không có kết quả, thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.
2. Người mất tích có được hưởng thừa kế di sản không?
Căn cứ Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người thừa kế theo pháp luật như sau:
“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Bên cạnh đó, theo Điều 613 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“Điều 613. Người thừa kế
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.”
Đồng thời, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
“Điều 71. Tuyên bố chết
1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây:
a) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống.”
Theo các quy định trên, người bị Tòa án tuyên bố mất tích vẫn được xem là còn sống cho đến khi có quyết định tuyên bố đã chết sau thời hạn 03 năm kể từ ngày quyết định mất tích có hiệu lực. Do đó, người bị tuyên bố mất tích vẫn được coi là còn sống và có quyền hưởng di sản thừa kế theo quy định của pháp luật.
3. Khi có người mất tích thì việc phân chia di sản thừa kế được thực hiện như thế nào?
Căn cứ Điều 65 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
“Điều 65. Quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú
1. Theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án giao tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú cho người sau đây quản lý:
a) Đối với tài sản đã được người vắng mặt ủy quyền quản lý thì người được ủy quyền tiếp tục quản lý;
b) Đối với tài sản chung thì do chủ sở hữu chung còn lại quản lý;
c) Đối với tài sản do vợ hoặc chồng đang quản lý thì vợ hoặc chồng tiếp tục quản lý; nếu vợ hoặc chồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì con thành niên hoặc cha, mẹ của người vắng mặt quản lý.
2. Trường hợp không có những người được quy định tại khoản 1 Điều này thì Tòa án chỉ định một người trong số những người thân thích của người vắng mặt tại nơi cư trú quản lý tài sản; nếu không có người thân thích thì Tòa án chỉ định người khác quản lý tài sản.”
Theo đó, phần di sản mà người vắng mặt tại nơi cư trú (người mất tích) được hưởng sẽ không bị chia cho người khác mà được giữ lại và giao cho người quản lý tài sản. Người quản lý có thể là người đã được ủy quyền trước đó, vợ/chồng, người thân thích hoặc do Tòa án chỉ định.
Như vậy, trong trường hợp của bạn, người anh đã bị Tòa án tuyên bố mất tích vẫn được pháp luật xác định là còn sống, vì mới mất tích hơn một năm và chưa có quyết định tuyên bố đã chết. Do đó, anh của bạn vẫn có quyền hưởng di sản thừa kế từ cha bạn để lại. Tuy nhiên, phần di sản mà anh bạn được hưởng sẽ tạm thời chưa chia cho những người thừa kế khác mà sẽ được giao cho người quản lý tài sản, có thể là bạn, anh trai còn lại của bạn hoặc do Tòa án chỉ định để quản lý.
Trân trọng./.