
Ngoại hối là gì? Chính sách ngoại hối áp dụng trong Trung tâm tài chính quốc tế được quy định thực hiện như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Khái niệm “ngoại hối” được hiểu cụ thể như thế nào theo quy định của pháp luật Việt Nam? Pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về chính sách quản lý và sử dụng ngoại hối trong phạm vi Trung tâm tài chính quốc tế? Việc thanh toán, chuyển tiền, vay vốn, đầu tư và sử dụng ngoại tệ giữa các đối tượng khác nhau trong và ngoài Trung tâm được pháp luật điều chỉnh ra sao nhằm đảm bảo mục tiêu hội nhập quốc tế nhưng vẫn tuân thủ cơ chế kiểm soát ngoại hối?
MỤC LỤC
Trả lời:
1. Ngoại hối là gì?
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa quy định cụ thể về thuật ngữ ngoại hối là như thế nào. Tuy nhiên, có thể hiểu ngoại hối là một thuật ngữ dùng để chỉ tất cả những phương tiện thanh toán được sử dụng trong giao dịch quốc tế.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh số 28/2005/PL-UBTVQH11 ngày 13/12/2005 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về ngoại hối quy định như sau:
“Điều 4. Giải thích từ ngữ
Trong Pháp lệnh này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Ngoại hối bao gồm:
a) Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng tiền chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực (sau đây gọi là ngoại tệ);
b) Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm séc, thẻ thanh toán, hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và các phương tiện thanh toán khác;
c) Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;
d) Vàng thuộc dự trữ ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài của người cư trú; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp mang vào và mang ra khỏi lãnh thổ Việt Nam;
đ) Đồng tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng trong thanh toán quốc tế.”
Cách tiếp cận này cho thấy pháp luật Việt Nam xác định ngoại hối theo hướng liệt kê các cấu phần cụ thể, phản ánh đúng bản chất của ngoại hối là tập hợp những phương tiện thanh toán và dự trữ có thể chuyển đổi được và sử dụng trong giao dịch kinh tế quốc tế. Đồng thời, cách quy định này cũng tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc quản lý hoạt động ngoại hối trong nền kinh tế quốc dân, phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như yêu cầu đảm bảo an ninh tiền tệ và kiểm soát luồng vốn xuyên biên giới.
2. Chính sách ngoại hối áp dụng trong Trung tâm tài chính quốc tế được quy định thực hiện như thế nào?
Căn cứ theo Điều 16 Nghị quyết số 222/2025/QH15 ngày 27/6/2025 của Quốc hội về Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam quy định như sau:
“Điều 16. Chính sách ngoại hối
1. Việc sử dụng ngoại tệ của Thành viên thực hiện theo quy định sau:
a) Việc thanh toán, chuyển tiền, niêm yết, quảng cáo, báo giá, định giá, ghi giá đối với các hoạt động và dịch vụ giữa các Thành viên với nhau được sử dụng ngoại tệ theo quy định tại Nghị quyết này và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành;
b) Việc thanh toán, chuyển tiền, niêm yết, quảng cáo, báo giá, định giá, ghi giá đối với các hoạt động và dịch vụ giữa Thành viên với tổ chức, cá nhân ở nước ngoài được sử dụng ngoại tệ;
c) Việc sử dụng ngoại tệ trong các hoạt động và dịch vụ giữa Thành viên với tổ chức, cá nhân trên lãnh thổ Việt Nam không phải là Thành viên thực hiện theo quy định pháp luật hiện hành về sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam.
2. Thành viên được vay vốn bằng ngoại tệ từ các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài và phải thực hiện chế độ báo cáo, khai báo thông tin theo quy định của pháp luật.
3. Thành viên chỉ được vay vốn bằng ngoại tệ từ các Thành viên là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 11 của Nghị quyết này.
4. Thành viên được cho các tổ chức trên lãnh thổ Việt Nam không phải là Thành viên vay bằng ngoại tệ. Tổ chức là bên đi vay tại khoản này có trách nhiệm tuân thủ quy định về điều kiện, đối tượng, mục đích, thủ tục đăng ký khoản vay.
5. Việc chuyển vốn đầu tư nước ngoài vào Trung tâm tài chính quốc tế, chuyển vốn, lợi nhuận và khoản thu hợp pháp từ Trung tâm tài chính quốc tế ra nước ngoài của nhà đầu tư nước ngoài được thực hiện bằng ngoại tệ, thông qua tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ đứng tên nhà đầu tư nước ngoài mở tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động trong Trung tâm tài chính quốc tế.
6. Việc chuyển tiền giữa các Thành viên liên quan đến hoạt động đầu tư trong Trung tâm tài chính quốc tế được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ của Thành viên.
7. Khi chuyển tiền để thực hiện hoạt động đầu tư, cho vay từ Trung tâm tài chính quốc tế ra nước ngoài:
a) Thành viên do nhà đầu tư nước ngoài sở hữu 100% vốn điều lệ không phải tuân thủ các quy định về thủ tục hành chính liên quan đến quản lý ngoại hối, nhưng phải thực hiện đầy đủ các quy định về việc mở tài khoản, chế độ báo cáo;
b) Thành viên không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này phải tuân thủ quy định về quản lý ngoại hối áp dụng đối với đầu tư và cho vay của Việt Nam ra nước ngoài.
8. Việc chuyển tiền của tổ chức trên lãnh thổ Việt Nam không phải là Thành viên để thực hiện hoạt động đầu tư vào Trung tâm tài chính quốc tế và việc chuyển tiền để thực hiện hoạt động đầu tư từ Trung tâm tài chính quốc tế vào phần còn lại của Việt Nam thực hiện theo quy định của Chính phủ.”
Dẫn chiếu đến khoản 1 Điều 11 Nghị quyết số 222/2025/QH15 ngày 27/6/2025 của Quốc hội về Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam quy định như sau:
“Điều 11. Quyền của Thành viên và nhà đầu tư nước ngoài
1. Quyền của Thành viên:
a) Được thành lập công ty quản lý vốn (công ty holding) để huy động vốn từ nước ngoài và quản lý đầu tư, trừ trường hợp Thành viên là ngân hàng thương mại;
b) Được huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân ngoài lãnh thổ Việt Nam, người không cư trú mà không phải thực hiện thủ tục cấp phép với cơ quan quản lý nhà nước nhưng phải thực hiện chế độ báo cáo, khai báo thông tin theo quy định của Chính phủ;
c) Khoản nợ của Thành viên với tổ chức, cá nhân ngoài lãnh thổ Việt Nam không tính vào nợ nước ngoài của quốc gia trong điều hành, giám sát các chỉ tiêu an toàn nợ nước ngoài;
d) Được quyền tự do tiến hành các hoạt động đầu tư, kinh doanh với tổ chức, cá nhân ngoài lãnh thổ Việt Nam, người không cư trú hoặc với Thành viên khác theo giấy phép hoặc đăng ký được cấp cho Thành viên đó theo quy định tại Nghị quyết này và văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành;
đ) Đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng khi được cấp phép thành lập mới tại Trung tâm tài chính quốc tế thì Giấy phép thành lập và hoạt động đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký Thành viên;
e) Thành viên được lựa chọn áp dụng Chuẩn mực quốc tế về kế toán (IAS/IFRS) do Ủy ban Chuẩn mực kế toán quốc tế ban hành hoặc các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung (Chuẩn mực kế toán hoặc Chuẩn mực báo cáo tài chính) của các quốc gia: Ô-xtrây-li-a, Bra-xin, Ca-na-đa, các quốc gia thành viên liên minh châu Âu, Hồng Kông (Trung Quốc), Nhật Bản, Mê-hi-cô, Niu Di-lân, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nga, Xinh-ga-po, Thụy Sỹ, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ và Việt Nam. Trường hợp các chủ thể đã lựa chọn áp dụng Chuẩn mực kế toán khác với Chuẩn mực kế toán Việt Nam thì không phải lập báo cáo tài chính theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam;
g) Các quyền khác theo quy định tại Nghị quyết này và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành.”
Có thể thấy rằng chính sách ngoại hối áp dụng trong Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam được thiết kế với mức độ mở rộng và linh hoạt cao, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh và thanh toán quốc tế trong nội bộ Trung tâm, đồng thời vẫn bảo đảm sự kiểm soát chặt chẽ theo nguyên tắc quản lý ngoại hối của quốc gia.
Cụ thể, các Thành viên trong Trung tâm được sử dụng ngoại tệ một cách trực tiếp và hợp pháp trong các giao dịch nội bộ với nhau cũng như với các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài, điều này phù hợp với thông lệ quốc tế trong việc phát triển các trung tâm tài chính có tính cạnh tranh toàn cầu. Tuy nhiên, đối với giao dịch giữa Thành viên và tổ chức, cá nhân trong nước không phải là Thành viên, việc sử dụng ngoại tệ vẫn phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định hiện hành về ngoại hối, phản ánh rõ nguyên tắc phân biệt vùng tài chính đặc thù với phần còn lại của nền kinh tế quốc dân.
Chính sách ngoại hối còn thể hiện tính linh hoạt trong thu hút vốn và điều phối dòng tiền, khi cho phép Thành viên được vay và cho vay bằng ngoại tệ, kể cả từ và đối với tổ chức trong nước không phải là Thành viên. Đặc biệt, quy trình chuyển vốn đầu tư, lợi nhuận và thu nhập hợp pháp ra nước ngoài đối với nhà đầu tư nước ngoài được thực hiện bằng ngoại tệ và thông qua tài khoản thanh toán mở tại tổ chức tín dụng trong Trung tâm, bảo đảm tính minh bạch, thuận tiện và an toàn về mặt pháp lý.
Đối với hoạt động đầu tư và cho vay từ Trung tâm ra nước ngoài, các quy định được xây dựng phân biệt rõ giữa Thành viên 100% vốn nước ngoài và Thành viên khác, từ đó vừa đảm bảo tính tự do tài chính cho nhà đầu tư nước ngoài, vừa giữ cơ chế kiểm soát đối với dòng vốn Việt Nam đầu tư ra ngoài lãnh thổ. Đồng thời, những hoạt động chuyển tiền giữa Trung tâm và phần còn lại của Việt Nam, cũng như đầu tư vào Trung tâm từ tổ chức trong nước, sẽ tiếp tục tuân theo hướng dẫn và điều tiết của Chính phủ, đảm bảo hài hòa giữa tự do hóa tài chính và an ninh tiền tệ quốc gia.
Tóm lại, chính sách ngoại hối trong Trung tâm tài chính quốc tế được thiết kế theo hướng mở cửa, minh bạch, linh hoạt nhưng có kiểm soát, nhằm mục tiêu vừa thu hút và bảo hộ dòng vốn đầu tư quốc tế, vừa giữ vững chủ quyền tài chính – tiền tệ của Việt Nam. Đây là bước đi thể chế quan trọng, phù hợp với chiến lược phát triển Trung tâm tài chính quốc tế mang tầm khu vực và toàn cầu, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập nhưng có định hướng và kiểm soát chặt chẽ.
Trân trọng./.