Khóa của Hội đồng nhân dân ở đơn vị hành chính sau khi thành lập, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính và hoạt động của chính quyền địa phương 02 cấp khi không còn đủ hai phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân được xác định và thực hiện như thế nào?

Khóa của Hội đồng nhân dân ở đơn vị hành chính sau khi thành lập, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính và hoạt động của chính quyền địa phương 02 cấp khi không còn đủ hai phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân được xác định và thực hiện như thế nào?

Khóa của Hội đồng nhân dân ở đơn vị hành chính sau khi thành lập, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính và hoạt động của chính quyền địa phương 02 cấp khi không còn đủ hai phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân được xác định và thực hiện như thế nào?

Luật sư cho tôi hỏi: Căn cứ theo quy định pháp luật, khi một đơn vị hành chính thay đổi về địa giới hành chính (thành lập, sáp nhập, chia tách hoặc điều chỉnh), khóa của Hội đồng nhân dân tại đơn vị hành chính mới sẽ được xác định theo nguyên tắc nào? Đồng thời, trong trường hợp số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân không còn đủ hai phần ba tổng số theo quy định, hoạt động của chính quyền địa phương sẽ được xử lý ra sao, bao gồm việc bầu cử bổ sung và quyền hạn ra quyết định, để đảm bảo tính liên tục và hiệu quả của bộ máy nhà nước?

MỤC LỤC

1. Hội đồng nhân dân là cơ quan gì?

2. Khóa của Hội đồng nhân dân ở đơn vị hành chính sau khi thành lập, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính và hoạt động của chính quyền địa phương 02 cấp khi không còn đủ hai phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân được xác định và thực hiện như thế nào?

 

Trả lời:

1. Hội đồng nhân dân là cơ quan gì?

Căn cứ theo Điều 113 Hiến pháp năm 2013 và khoản 1 Điều 5 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 (Luật số: 72/2025/QH15) có hiệu lực từ ngày 16/6/2025 quy định như sau:

“Điều 113.

1. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.

2. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.”

“Điều 5. Hội đồng nhân dân

1. Hội đồng nhân dân gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử tri ở địa phương bầu ra, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương, giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa phương; chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.”

Từ các quy định trên có thể thấy Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, giữ vai trò trung tâm trong việc thực hiện quyền dân chủ đại diện tại đơn vị hành chính. Được Nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra, Hội đồng nhân dân có chức năng quyết định các vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền địa phương theo quy định của pháp luật và giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

Với vị trí là thiết chế thể hiện ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, Hội đồng nhân dân đồng thời cũng chịu trách nhiệm trước Nhân dân và cơ quan nhà nước cấp trên, thể hiện rõ nguyên tắc song hành giữa quyền lực và trách nhiệm chính trị, góp phần quan trọng vào việc đảm bảo tính dân chủ, pháp quyền và hiệu quả trong quản lý nhà nước tại địa phương.

2. Khóa của Hội đồng nhân dân ở đơn vị hành chính sau khi thành lập, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính và hoạt động của chính quyền địa phương 02 cấp khi không còn đủ hai phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân được xác định và thực hiện như thế nào?

Căn cứ theo Điều 49 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 (Luật số: 72/2025/QH15) có hiệu lực từ ngày 16/6/2025 quy định như sau:

“Điều 49. Khóa của Hội đồng nhân dân ở đơn vị hành chính sau khi thành lập, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính và hoạt động của chính quyền địa phương khi không còn đủ hai phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân

1. Khóa của Hội đồng nhân dân ở đơn vị hành chính sau khi thành lập, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính được xác định như sau:

a) Trường hợp đơn vị hành chính mới sau khi thành lập, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính giữ nguyên tên gọi của một trong các đơn vị hành chính trước đây thì khóa của Hội đồng nhân dân ở đơn vị hành chính mới tiếp tục tính theo khóa của Hội đồng nhân dân ở đơn vị hành chính được giữ nguyên tên gọi;

b) Trường hợp đơn vị hành chính mới sau khi thành lập, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính thay đổi tên gọi hoặc thay đổi loại đơn vị hành chính thì khóa của Hội đồng nhân dân ở đơn vị hành chính mới được tính lại từ đầu (khóa I) kể từ thời điểm thành lập.

2. Hoạt động của chính quyền địa phương khi không còn đủ hai phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân được thực hiện như sau:

a) Trường hợp thời gian còn lại của nhiệm kỳ nhiều hơn 18 tháng mà số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân ở đơn vị hành chính không đủ hai phần ba tổng số đại biểu được bầu theo quy định của Luật này thì thực hiện bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật về bầu cử;

b) Trường hợp thời gian còn lại của nhiệm kỳ ít hơn hoặc bằng 18 tháng thì không thực hiện bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân.

Hội đồng nhân dân ở đơn vị hành chính có số đại biểu lớn hơn hoặc bằng một phần ba tổng số đại biểu được bầu theo quy định của Luật này bầu các chức danh của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân theo quy định tại Điều 36 của Luật này và hoạt động cho đến khi Hội đồng nhân dân khóa mới được bầu ra. Việc quyết định các công việc thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân phải được trên hai phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân hiện có biểu quyết tán thành.

Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương tại đơn vị hành chính có số đại biểu Hội đồng nhân dân không đủ một phần ba tổng số đại biểu được bầu theo quy định của Luật này thực hiện theo quy định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.”

Dẫn chiếu đến Điều 36 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 (Luật số: 72/2025/QH15) quy định về việc bầu các chức danh của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân như sau:

“Điều 36. Bầu các chức danh của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân

1. Hội đồng nhân dân bầu Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng Ban của Hội đồng nhân dân trong số đại biểu Hội đồng nhân dân theo danh sách đề cử chức vụ từng người của Thường trực Hội đồng nhân dân.

Tại kỳ họp thứ nhất, Hội đồng nhân dân bầu Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng Ban của Hội đồng nhân dân trong số các đại biểu Hội đồng nhân dân theo đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân khóa trước.

Trường hợp khuyết Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ định chủ tọa kỳ họp của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; khuyết Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã thì Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chỉ định chủ tọa kỳ họp của Hội đồng nhân dân cấp xã; Hội đồng nhân dân bầu Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng Ban của Hội đồng nhân dân trong số đại biểu Hội đồng nhân dân theo giới thiệu của chủ tọa kỳ họp.

2. Hội đồng nhân dân bầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân theo giới thiệu của Chủ tịch Hội đồng nhân dân; bầu Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Ủy viên Ủy ban nhân dân theo giới thiệu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Thành viên của Ủy ban nhân dân không nhất thiết là đại biểu Hội đồng nhân dân.

3. Kết quả bầu Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn; kết quả bầu Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã phải được Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê chuẩn.

4. Kết quả bầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn; kết quả bầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phải được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê chuẩn.

5. Khi Hội đồng nhân dân tiến hành bầu các chức danh quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, nếu có đại biểu Hội đồng nhân dân ứng cử hoặc giới thiệu thêm người ứng cử ngoài danh sách đã được cơ quan hoặc người có thẩm quyền giới thiệu thì Thường trực Hội đồng nhân dân trình Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định; riêng tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa Hội đồng nhân dân thì chủ tọa kỳ họp trình Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định.

6. Người giữ chức vụ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình ngay sau khi được Hội đồng nhân dân bầu.

7. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày bầu Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân phải gửi kết quả bầu đến cơ quan, người có thẩm quyền để phê chuẩn theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều này. Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được kết quả bầu, cơ quan, người có thẩm quyền phải xem xét, phê chuẩn; trường hợp không phê chuẩn thì phải trả lời bằng văn bản, nêu rõ lý do và yêu cầu Hội đồng nhân dân tổ chức bầu lại chức danh không được phê chuẩn.”

Căn cứ theo quy định pháp luật trên cho thấy các quy định về khóa của Hội đồng nhân dân và hoạt động của chính quyền địa phương trong các trường hợp đặc biệt đã được thiết lập một cách cụ thể, nhằm đảm bảo tính liên tục và hợp pháp của bộ máy nhà nước.

Về xác định khóa của Hội đồng nhân dân:

- Trường hợp giữ nguyên tên gọi: Nếu đơn vị hành chính mới được thành lập, nhập, chia hoặc điều chỉnh địa giới nhưng vẫn giữ nguyên tên gọi của một trong các đơn vị cũ, khóa của Hội đồng nhân dân sẽ được tính tiếp theo khóa của Hội đồng nhân dân ở đơn vị cũ được giữ tên;

- Trường hợp thay đổi tên gọi: Nếu đơn vị hành chính mới thay đổi tên gọi hoặc loại đơn vị hành chính, khóa của Hội đồng nhân dân sẽ được tính lại từ đầu (khóa I) kể từ thời điểm thành lập.

Về hoạt động của chính quyền địa phương khi không đủ đại biểu:

- Trường hợp bổ sung đại biểu:

+ Nếu thời gian còn lại của nhiệm kỳ nhiều hơn 18 tháng mà số lượng đại biểu không đủ 2/3 tổng số đại biểu được bầu, sẽ tiến hành bầu cử bổ sung;

+ Nếu thời gian còn lại của nhiệm kỳ bằng hoặc ít hơn 18 tháng, sẽ không thực hiện bầu cử bổ sung.

- Trường hợp tiếp tục hoạt động:

+ Khi số đại biểu còn lại từ 1/3 trở lên so với tổng số đại biểu được bầu, Hội đồng nhân dân sẽ tiến hành bầu các chức danh chủ chốt và tiếp tục hoạt động cho đến khi có Hội đồng nhân dân khóa mới. Tuy nhiên, việc ra quyết định phải được sự tán thành của trên 2/3 tổng số đại biểu hiện có;

+ Khi số đại biểu không đủ 1/3, tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương sẽ được thực hiện theo quy định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nhằm đảm bảo không có khoảng trống trong hoạt động quản lý, điều hành.

Tóm lại, quy định trên đã đưa ra những giải pháp pháp lý chi tiết và linh hoạt cho các tình huống thay đổi về địa giới hành chính và nhân sự của Hội đồng nhân dân. Các quy định này không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn thể hiện sự chặt chẽ, chu đáo của pháp luật trong việc duy trì hoạt động quản lý nhà nước một cách ổn định và hiệu quả, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý