
Giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng được quy định như thế nào? Trường hợp nào người thứ ba bị coi là không ngay tình? Việc cung cấp thông tin về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong giao dịch với người thứ ba được quy định như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Trong thực tiễn giao dịch dân sự, việc xác lập giao dịch liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán hoặc động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thường tiềm ẩn nhiều rủi ro nếu các bên không nắm rõ quy định pháp luật. Vậy, giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng được quy định như thế nào? Trường hợp nào người thứ ba bị coi là không ngay tình? Việc cung cấp thông tin về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong giao dịch với người thứ ba được quy định như thế nào?
MỤC LỤC
Trả lời:
1. Giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng được quy định như thế nào?
Căn cứ Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:
“Điều 32. Giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng
1. Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng là người đứng tên tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó.
2. Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng đang chiếm hữu động sản mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó trong trường hợp Bộ luật dân sự có quy định về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình.”
Theo đó, trong giao dịch với người thứ ba ngay tình, vợ, chồng đứng tên tài khoản ngân hàng, chứng khoán sẽ được coi là người có quyền giao dịch đối với tài sản đó. Tương tự, khi vợ, chồng đang chiếm hữu động sản không bắt buộc đăng ký quyền sở hữu, họ cũng được xem như có quyền thực hiện giao dịch với người thứ ba ngay tình. Quy định này nhằm bảo vệ sự ổn định của các giao dịch dân sự và quyền lợi chính đáng của bên thứ ba ngay tình.
2. Trường hợp nào người thứ ba không ngay tình khi xác lập, thực hiện giao dịch với vợ, chồng liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán, động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu?
Căn cứ Điều 8 Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy định như sau:
“Điều 8. Người thứ ba không ngay tình khi xác lập, thực hiện giao dịch với vợ, chồng liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán, động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu
Người thứ ba xác lập, thực hiện giao dịch với vợ, chồng liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán, động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu thì bị coi là không ngay tình trong những trường hợp sau đây:
1. Đã được vợ, chồng cung cấp thông tin theo quy định tại Điều 16 của Nghị định này mà vẫn xác lập, thực hiện giao dịch trái với những thông tin đó;
2. Vợ chồng đã công khai thỏa thuận theo quy định của pháp luật có liên quan về việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản và người thứ ba biết hoặc phải biết nhưng vẫn xác lập, thực hiện giao dịch trái với thỏa thuận của vợ chồng.”
Như vậy, người thứ ba khi giao dịch với vợ, chồng liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán hoặc động sản không phải đăng ký quyền sở hữu sẽ bị coi là không ngay tình nếu đã được cung cấp thông tin rõ ràng mà vẫn thực hiện giao dịch trái với thông tin đó hoặc biết (hoặc phải biết) về thỏa thuận công khai của vợ chồng nhưng vẫn cố tình giao dịch trái thỏa thuận.
3. Việc cung cấp thông tin về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong giao dịch với người thứ ba được quy định như thế nào?
Theo Điều 16 Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy định như sau:
“Điều 16. Cung cấp thông tin về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong giao dịch với người thứ ba
Trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được áp dụng thì khi xác lập, thực hiện giao dịch vợ, chồng có nghĩa vụ cung cấp cho người thứ ba biết về những thông tin liên quan; nếu vợ, chồng vi phạm nghĩa vụ này thì người thứ ba được coi là ngay tình và được bảo vệ quyền lợi theo quy định của Bộ luật Dân sự.”
Theo đó, khi vợ chồng áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận, họ có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin về chế độ này cho người thứ ba khi tham gia giao dịch. Nếu vợ, chồng không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin, người thứ ba vẫn được coi là ngay tình và quyền lợi của họ sẽ được bảo vệ theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Trân trọng./.