Doanh nghiệp nhỏ và vừa được xác định dựa trên những căn cứ nào?

Doanh nghiệp nhỏ và vừa được xác định dựa trên những căn cứ nào?

Doanh nghiệp nhỏ và vừa được xác định dựa trên những căn cứ nào?

Luật sư cho tôi hỏi: Hiện nay tôi đang có dự định thành lập một công ty chuyên cung cấp dịch vụ vận tải hàng hóa. Trong quá trình tìm hiểu, tôi được biết rằng việc một doanh nghiệp được xếp vào loại nhỏ và vừa sẽ có ý nghĩa rất quan trọng, bởi điều này liên quan trực tiếp đến việc được hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước về vốn, thuế cũng như đào tạo. Tuy nhiên, tôi lại chưa rõ pháp luật quy định cụ thể thế nào về vấn đề này. Cụ thể, hiện nay doanh nghiệp nhỏ và vừa được xác định dựa trên những căn cứ nào? Mong luật sư giải đáp giúp tôi, xin cảm ơn.

MỤC LỤC

1. Việc xác định lĩnh vực hoạt động, số lao động sử dụng có tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm của doanh nghiệp nhỏ và vừa được thực hiện như thế nào?

2. Tổng nguồn vốn và tổng doanh thu của doanh nghiệp nhỏ và vừa được xác định như thế nào?

3. Pháp luật quy định như thế nào về việc xác định và kê khai doanh nghiệp nhỏ và vừa?

 

Trả lời:

1. Việc xác định lĩnh vực hoạt động, số lao động sử dụng có tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm của doanh nghiệp nhỏ và vừa được thực hiện như thế nào?

Nhằm cụ thể các căn cứ để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa, Điều 6 Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (sau đây gọi tắt là “Nghị định số 80/2021/NĐ-CP”) đã ghi nhận như sau:

Điều 6. Xác định lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa

Lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa được xác định căn cứ vào ngành, nghề kinh doanh chính mà doanh nghiệp đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh.”

Theo đó, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa được xác định căn cứ vào ngành, nghề kinh doanh chính mà doanh nghiệp đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh. Điều này bảo đảm tính thống nhất trong quản lý nhà nước, tránh tình trạng xác định tùy tiện hoặc chồng chéo giữa các lĩnh vực.

Bên cạnh đó, để xác định số lượng lao động sử dụng có tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm của doanh nghiệp nhỏ và vừa, Điều 7 Nghị định số 80/2021/NĐ-CP được hướng dẫn bởi khoản 1 Điều 2 Thông tư số 06/2022/TT-BKHĐT ngày 10/5/2022 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn một số điều của Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau:

Điều 7. Xác định số lao động sử dụng có tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm của doanh nghiệp nhỏ và vừa

1. Số lao động sử dụng có tham gia bảo hiểm xã hội là toàn bộ số lao động do doanh nghiệp quản lý, sử dụng và trả lương, trả công tham gia bảo hiểm xã hội theo pháp luật về bảo hiểm xã hội.

2. Số lao động sử dụng có tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm được tính bằng tổng số lao động sử dụng có tham gia bảo hiểm xã hội của tất cả các tháng trong năm trước liền kề chia cho 12 tháng.

Số lao động sử dụng có tham gia bảo hiểm xã hội của tháng được xác định tại thời điểm cuối tháng và căn cứ trên chứng từ nộp bảo hiểm xã hội của tháng đó mà doanh nghiệp nộp cho cơ quan bảo hiểm xã hội.

3. Trường hợp doanh nghiệp hoạt động dưới 01 năm, số lao động sử dụng có tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm được tính bằng tổng số lao động sử dụng có tham gia bảo hiểm xã hội của các tháng hoạt động chia cho số tháng hoạt động.”

Điều 2: Giải thích từ ngữ

1. Số lao động sử dụng có tham gia bảo hiểm xã hội quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị định số 80/2021/NĐ-CP là tổng số lao động ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn và lao động ký hợp đồng xác định thời hạn dưới 36 tháng của DNNVV có tham gia bảo hiểm xã hội. Trong đó, lao động ký hợp đồng xác định thời hạn dưới 36 tháng có thể do DNNVV hoặc đơn vị khác đóng bảo hiểm xã hội.”

* Lưu ý: Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với Bộ Tài chính được hợp nhất thành Bộ Tài chính (căn cứ mục 2.3 Phần II Kết luận số 121-KL/TW ngày 24/01/2025 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và khoản 6 Điều 1 Nghị quyết số 176/2025/QH15 ngày 18/02/2025 của Quốc hội về cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khoá XV).

Như vậy, số lao động sử dụng có tham gia bảo hiểm xã hội là toàn bộ số lao động ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn, lao động ký hợp động xác định thời hạn dưới 36 tháng của doanh nghiệp nhỏ và vừa do doanh nghiệp quản lý, sử dụng và trả lương, trả công tham gia bảo hiểm xã hội theo pháp luật về bảo hiểm xã hội. Trong đó, lao động ký hợp đồng xác định thời hạn dưới 36 tháng có thể do doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc đơn vị khác đóng bảo hiểm xã hội.

Đối với số lao động sử dụng có tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm thì được tính bằng tổng số lao động sử dụng có tham gia bảo hiểm xã hội của tất cả các tháng trong năm trước liền kề rồi chia cho 12 tháng. Trong trường hợp doanh nghiệp hoạt động dưới 01 năm, số lao động sử dụng có tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm được tính bằng tổng số lao động sử dụng có tham gia bảo hiểm xã hội của các tháng hoạt động chia cho số tháng hoạt động. Theo đó, số lao động sử dụng có tham gia bảo hiểm xã hội của tháng được xác định tại thời điểm cuối tháng và căn cứ trên chứng từ nộp bảo hiểm xã hội của tháng đó mà doanh nghiệp nộp cho cơ quan bảo hiểm xã hội.

Qua đó, việc xác định số lao động tham gia bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp nhỏ và vừa cho ta thấy cách tiếp cận chặt chẽ, gắn với dữ liệu thực tế từ cơ quan bảo hiểm xã hội. Cách tính số lao động bình quân năm hoặc theo số tháng hoạt động không chỉ phản ánh đúng quy mô sử dụng lao động của doanh nghiệp, mà còn tạo sự công bằng giữa các doanh nghiệp lâu năm và doanh nghiệp mới thành lập. Nhờ vậy, tiêu chí này vừa đảm bảo tính minh bạch, vừa giúp cơ quan quản lý có căn cứ tin cậy khi phân loại doanh nghiệp và triển khai các chính sách hỗ trợ.

2. Tổng nguồn vốn và tổng doanh thu của doanh nghiệp nhỏ và vừa được xác định như thế nào?

Căn cứ tại Điều 8, 9 Nghị định số 80/2021/NĐ-CP đã quy định về việc xác định tổng nguồn vốn cũng như tổng doanh thu của doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau:

Điều 8. Xác định tổng nguồn vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa

1. Tổng nguồn vốn của năm được xác định trong bảng cân đối kế toán thể hiện trên Báo cáo tài chính của năm trước liền kề mà doanh nghiệp nộp cho cơ quan quản lý thuế. Tổng nguồn vốn của năm được xác định tại thời điểm cuối năm.

2. Trường hợp doanh nghiệp hoạt động dưới 01 năm, tổng nguồn vốn được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cuối quý liền kề thời điểm doanh nghiệp đăng ký hưởng nội dung hỗ trợ.

Điều 9. Xác định tổng doanh thu của doanh nghiệp nhỏ và vừa

1. Tổng doanh thu của năm là tổng doanh thu bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp và được xác định trên Báo cáo tài chính của năm trước liền kề mà doanh nghiệp nộp cho cơ quan quản lý thuế.

2. Trường hợp doanh nghiệp hoạt động dưới 01 năm hoặc trên 01 năm nhưng chưa phát sinh doanh thu thì doanh nghiệp căn cứ vào tiêu chí tổng nguồn vốn quy định tại Điều 8 Nghị định này để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Theo đó, tổng nguồn vốn của năm sẽ được xác định trong bảng cân đối kế toán thể hiện ngay trên Báo cáo tài chính của năm trước liền kề mà doanh nghiệp nộp cho cơ quan quản lý thuế. Lưu ý rằng tổng nguồn vốn của năm được xác định tại thời điểm cuối năm. Nếu doanh nghiệp mà hoạt động dưới 01 năm, thì tổng nguồn vốn này sẽ được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cuối quý liền kề thời điểm doanh nghiệp đăng ký hưởng nội dung hỗ trợ.Việc xác định tổng nguồn vốn từ bảng cân đối kế toán cho thấy tiêu chí này được xây dựng trên cơ sở dữ liệu kế toán, tài chính đã được doanh nghiệp lập và nộp cho cơ quan thuế, qua đó bảo đảm tính khách quan và khả năng kiểm chứng.

Về doanh thu, pháp luật quy định tổng doanh thu của năm là tổng doanh thu bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp và được xác định dựa trên Báo cáo tài chính của năm trước liền kề mà doanh nghiệp nộp cho cơ quan quản lý thuế. Nếu thuộc trường hợp doanh nghiệp hoạt động dưới 01 năm hoặc trên 01 năm nhưng chưa phát sinh doanh thu thì doanh nghiệp căn cứ vào tiêu chí tổng nguồn vốn được nêu trên để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Tóm lại, việc xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa dựa trên các tiêu chí về tổng nguồn vốn và tổng doanh thu không chỉ mang tính kỹ thuật về kế toán, tài chính, mà còn phản ánh cách tiếp cận quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp này. Các tiêu chí này được xây dựng trên cơ sở những chỉ số đã được chuẩn hóa, minh bạch trong Báo cáo tài chính, nhờ đó giúp cơ quan quản lý dễ dàng kiểm chứng, đồng thời hạn chế tình trạng khai báo thiếu chính xác. Bên cạnh đó, việc phân định rõ ràng dựa trên vốn và doanh thu còn có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết kế các chính sách hỗ trợ, bởi lẽ mỗi nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ có nhu cầu và mức độ tiếp cận hỗ trợ khác nhau. Từ đó, các biện pháp hỗ trợ sẽ được triển khai đúng đối tượng, đúng quy mô, đảm bảo tính công bằng và hiệu quả trong thực thi chính sách phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.

3. Pháp luật quy định như thế nào về việc xác định và kê khai doanh nghiệp nhỏ và vừa?

Về việc xác định và kê khai doanh nghiệp nhỏ và vừa, Điều 10 Nghị định số 80/2021/NĐ-CP quy định như sau:

Điều 10. Xác định và kê khai doanh nghiệp nhỏ và vừa

1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa căn cứ vào mẫu quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này để tự xác định và kê khai quy mô là doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa và nộp cho cơ quan, tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Doanh nghiệp nhỏ và vừa chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc kê khai.

2. Trường hợp doanh nghiệp phát hiện kê khai quy mô không chính xác, doanh nghiệp chủ động thực hiện điều chỉnh và kê khai lại. Việc kê khai lại phải được thực hiện trước thời điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa được hưởng nội dung hỗ trợ.

3. Trường hợp doanh nghiệp cố ý kê khai không trung thực về quy mô để được hưởng hỗ trợ thì doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và hoàn trả toàn bộ kinh phí đã nhận hỗ trợ.

4. Căn cứ vào thời điểm doanh nghiệp đề xuất hỗ trợ, cơ quan, tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đối chiếu thông tin về doanh nghiệp trên Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia để xác định thông tin doanh nghiệp kê khai đảm bảo đúng đối tượng hỗ trợ.

Theo đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa căn cứ vào mẫu được pháp luật quy định để tự xác định và kê khai quy mô là doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ hay là doanh nghiệp vừa và nộp cho cơ quan, tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cần lưu ý rằng, doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc kê khai này. Trong trường hợp doanh nghiệp phát hiện việc kê khai quy mô của mình là không chính xác, doanh nghiệp phải chủ động thực hiện điều chỉnh và kê khai lại. Việc kê khai lại này phải được thực hiện trước thời điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa được hưởng nội dung hỗ trợ. Nếu như doanh nghiệp cố ý kê khai không trung thực về quy mô để được hưởng hỗ trợ thì doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và hoàn trả lại toàn bộ kinh phí đã nhận hỗ trợ.

Ngoài ra, căn cứ vào thời điểm doanh nghiệp đề xuất hỗ trợ, cơ quan, tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ đối chiếu thông tin về doanh nghiệp trên Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia để xác định thông tin doanh nghiệp kê khai đảm bảo đúng đối tượng hỗ trợ.

Từ những phân tích trên ta thấy rằng, quy định về việc doanh nghiệp nhỏ và vừa phải tự kê khai quy mô theo mẫu thống nhất thể hiện rõ nguyên tắc tự chủ và tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp trong quá trình tiếp cận chính sách hỗ trợ. Cơ chế này vừa tạo sự linh hoạt, giảm bớt gánh nặng thủ tục cho cơ quan quản lý, vừa khuyến khích doanh nghiệp minh bạch thông tin và ý thức được trách nhiệm pháp lý của mình. Đồng thời, việc yêu cầu kê khai lại khi phát hiện sai sót và chế tài đối với hành vi kê khai không trung thực bảo đảm tính công bằng, tránh tình trạng lợi dụng chính sách để trục lợi. Bên cạnh đó, sự phối hợp của cơ quan hỗ trợ trong việc đối chiếu dữ liệu từ Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia cũng giúp tăng cường tính chính xác, khách quan, qua đó góp phần bảo đảm các chính sách hỗ trợ được thực hiện đúng đối tượng, phát huy hiệu quả và hạn chế rủi ro thất thoát nguồn lực nhà nước.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý