
Danh mục hàng hóa rủi ro là gì? Danh mục hàng hóa rủi ro được quy định như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Công ty chúng tôi thường xuyên xuất khẩu linh kiện điện tử và nhập khẩu hàng tiêu dùng qua cảng Hải Phòng. Trong quá trình làm thủ tục hải quan, công ty nhận thấy một số lô hàng của mình bị kiểm tra kỹ lưỡng hơn các lô hàng khác. Nguyên nhân là do những loại hàng này nằm trong danh mục hàng hóa rủi ro do cơ quan hải quan lập dựa trên dữ liệu về nguy cơ gian lận, vi phạm pháp luật và mức độ tuân thủ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tôi vẫn chưa biết danh mục nêu trên được tổng hợp dựa trên căn cứ nào. Vì vậy, tôi muốn hỏi, danh mục hàng hóa rủi ro được quy định như thế nào theo quy định của pháp luật hiện hành? Kính mong Luật sư giải đáp thắc mắc giúp tôi.
MỤC LỤC
1. Danh mục hàng hóa rủi ro là gì?
2. Danh mục hàng hóa rủi ro được quy định như thế nào?
Trả lời:
1. Danh mục hàng hóa rủi ro là gì?
Mỗi loại hàng hoá khác nhau có những tính chất, đặc điểm và tính nguy hại cho kinh tế - xã hội – môi trường không giống nhau. Vì vậy, đề ra danh mục hàng hoá rủi ro là cần thiết nhằm phân định giữa hàng hoá cần có sự kiểm soát do tính rủi ro và hàng hoá cần ít kiểm soát hơn. Theo đó, thuật ngữ danh mục hàng hoá rủi ro được định nghĩa tại khoản 16 Điều 3 Thông tư số 81/2019/TT-BTC ngày 15/11/2019 của Bộ Tài chính về việc quy định quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan như sau:
“Điều 3. Giải thích từ ngữ
…
16. Danh mục hàng hóa rủi ro là danh sách các mặt hàng rủi ro về buôn lậu, trốn thuế, gian lận thương mại và các vi phạm pháp luật khác trong lĩnh vực hải quan.
…”
Theo quy định này, có thể hiểu danh mục hàng hoá rủi ro có bản chất là danh sách các mặt hàng tiềm ẩn nguy cơ cao liên quan đến các hành vi buôn lậu, trốn thuế, gian lận thương mại hoặc vi phạm pháp luật khác liên quan đến lĩnh vực hải quan. Danh mục này không chỉ là tập hợp thông tin mang tính thống kê mà còn phản ánh kết quả phân tích rủi ro dựa trên dữ liệu thực tiễn, tình hình thực tế vi phạm trong lĩnh vực hải quan.
Từ đó, làm cơ sở nhằm thiết lập một công cụ nghiệp vụ quan trọng để cơ quan hải quan tập trung nguồn lực vào những nhóm hàng hóa có khả năng phát sinh rủi ro lớn nhất cũng như áp dụng những cơ chế quản lý rủi ro phù hợp, nhất quán.
2. Danh mục hàng hóa rủi ro được quy định như thế nào?
Danh mục hàng hóa rủi ro được quy định tại Điều 19 Thông tư số 81/2019/TT-BTC ngày 15/11/2019 của Bộ Tài chính về việc quy định quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan được sửa đổi bởi khoản 10 Điều 1 Thông tư số 06/2024/TT-BTC ngày 29/01/2024 của Bộ Tài chính về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 81/2019/TT/BTC ngày 15/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan như sau:
“Điều 19. Danh mục hàng hóa rủi ro
1. Danh mục hàng hóa rủi ro được cơ quan hải quan ban hành và sử dụng làm nguồn thông tin để phân tích, đánh giá rủi ro, hỗ trợ quyết định áp dụng các biện pháp nghiệp vụ hải quan và kiến nghị, xây dựng chế độ, chính sách quản lý đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Không sử dụng Danh mục hàng hóa rủi ro làm căn cứ duy nhất để quyết định kiểm tra, giám sát hải quan, kiểm tra sau thông quan, thanh tra và các hoạt động nghiệp vụ khác đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh.
2. Các Danh mục hàng hóa rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan bao gồm:
a) Danh mục hàng hóa rủi ro về chính sách quản lý chuyên ngành;
b) Danh mục hàng hóa rủi ro về phân loại hàng hóa;
c) Danh mục hàng hóa rủi ro về trị giá;
d) Danh mục hàng hóa rủi ro về xuất xứ;
đ) Danh mục hàng hóa rủi ro về môi trường;
e) Danh mục hàng hóa rủi ro về hàng giả, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ;
g) Danh mục hàng hóa rủi ro về ma túy, tiền chất;
h) Danh mục hàng hóa rủi ro về vũ khí, chất phóng xạ;
i) Danh mục hàng hóa rủi ro về buôn lậu, vận chuyển trái phép qua biên giới.
3. Danh mục hàng hóa rủi ro bao gồm những nội dung sau:
a) Lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu hoặc chỉ có một (01) lĩnh vực xuất khẩu hoặc lĩnh vực nhập khẩu;
b) Tên, mã số hàng hóa rủi ro được chi tiết theo mã HS 8 chữ số, 10 chữ số và được chuẩn hóa đáp ứng yêu cầu xử lý dữ liệu trên hệ thống;
c) Chủng loại và các đặc điểm để nhận biết hàng hóa;
d) Dấu hiệu rủi ro và các thông tin khác có liên quan.
4. Tiêu chí xây dựng Danh mục hàng hóa rủi ro tại khoản 2 Điều này được thực hiện theo quy định tại Điều 17 Thông tư này.”
Dẫn chiếu tới quy định tại Điều 17 Thông tư số 81/2019/TT-BTC ngày 15/11/2019 của Bộ Tài chính về việc quy định quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan được sửa đổi bởi khoản 8 Điều 1 Thông tư số 06/2024/TT-BTC ngày 29/01/2024 của Bộ Tài chính về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 81/2019/TT/BTC ngày 15/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan như sau:
“Điều 17. Tiêu chí phân loại mức độ rủi ro đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh trong hoạt động nghiệp vụ hải quan
Rủi ro đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh trong hoạt động nghiệp vụ hải quan được phân loại dựa trên các yếu tố quy định tại Điều 15 Nghị định số 08/2015/NĐ-CP như sau:
1. Mức độ tuân thủ, mức độ rủi ro người khai hải quan tại Điều 10 và 14 Thông tư này.
2. Chính sách quản lý, chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh.
3. Lịch sử vi phạm liên quan đến:
a) Chủ hàng hóa, người gửi hàng, người nhận hàng, địa chỉ gửi hàng;
b) Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh;
c) Chủ phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh;
d) Người xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và hành lý của người xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh.
4. Tính chất, đặc điểm, xuất xứ, tuyến đường, phương thức vận chuyển của:
a) Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh;
b) Phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh;
c) Người xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và hành lý của người xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh.
5. Người khai hải quan, hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh; phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; người xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; hành lý của người xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh là đối tượng quản lý theo Kế hoạch kiểm soát rủi ro, Chuyên đề kiểm soát rủi ro, Hồ sơ rủi ro.
6. Mục tiêu, yêu cầu quản lý hải quan trong từng thời kỳ.
7. Kết quả thực hiện các hoạt động nghiệp vụ liên quan đến hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh; phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; người xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; hành lý của người xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh.
8. Thông tin nghiệp vụ, cảnh báo rủi ro về đối tượng, phương thức, thủ đoạn buôn lậu, trốn thuế, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, gian lận thương mại trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh trong từng thời kỳ.
9. Kết quả đánh giá tuân thủ pháp luật, phân loại mức độ rủi ro đối với doanh nghiệp kinh doanh cảng, kho, bãi; doanh nghiệp cung ứng các dịch vụ cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh. Việc đánh giá tuân thủ pháp luật, phân loại mức độ rủi ro đối với doanh nghiệp kinh doanh cảng, kho, bãi được thực hiện theo quy định tại Điều 9, Điều 10, Điều 11, Điều 12, Điều 13, Điều 14 và Điều 15 Thông tư này.
10. Dấu hiệu rủi ro, dấu hiệu vi phạm pháp luật về hải quan.
11. Lựa chọn ngẫu nhiên theo yêu cầu quản lý trong từng thời kỳ.
12. Các yếu tố khác liên quan đến quá trình hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh.”
Theo đó, danh mục hàng hoá rủi ro đóng vai trò là nguồn dữ liệu nghiệp vụ giúp:
- Phân tích và đánh giá rủi ro: cung cấp thông tin nền để nhận diện mặt hàng tiềm ẩn rủi ro cao trong buôn lậu, gian lận thương mại, sai phạm thuế hoặc vi phạm quản lý chuyên ngành;
- Hỗ trợ ra quyết định: là căn cứ để lựa chọn các biện pháp nghiệp vụ phù hợp (như kiểm tra thực tế hàng hóa, kiểm tra sau thông quan, thanh tra thuế,...);
- Kiến nghị, xây dựng chính sách quản lý: giúp nhà làm chính sách có cơ sở thực tiễn để điều chỉnh quy định chuyên ngành, thuế suất, thủ tục kiểm tra hoặc danh mục hàng hóa cấm, hạn chế.
Ngoài ra, quy định cũng nhấn mạnh rằng danh mục hàng hóa rủi ro không được sử dụng như căn cứ duy nhất để quyết định kiểm tra. Điều này thể hiện nguyên tắc khách quan và đa yếu tố trong quản lý rủi ro, tránh lạm dụng danh mục dẫn đến việc kiểm tra tùy tiện hoặc gây cản trở hoạt động thương mại hợp pháp. Nói cách khác, danh mục này chỉ là công cụ hỗ trợ, chứ không có giá trị thay thế quá trình đánh giá rủi ro toàn diện.
Bên cạnh đó, để đảm bảo tính phân hoá và chuyên sâu của hàng hoá có tính rủi ro, quy định cũng đã phân loại hàng hoá rủi ro thành các nhóm khác nhau. Cụ thể, Danh mục hàng hóa rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan được phân chia theo yếu tố mà hàng hoá có khả năng gây rủi ro gồm:
- Chính sách quản lý chuyên ngành: hàng phải kiểm tra chất lượng, kiểm dịch, an toàn thực phẩm,…;
- Phân loại hàng hóa: phòng tránh nguy cơ khai sai mã HS để thực hiện các hành vi buôn lậu, trốn thuế và các hành vi vi phạm khác;
- Trị giá: tránh hành vi khai giá thấp để gian lận thuế nhập khẩu;
- Xuất xứ: loại trừ gian lận xuất xứ để hưởng ưu đãi thuế hoặc lẩn tránh các biện pháp phòng vệ thương mại,…;
- Môi trường: giúp phân loại hàng gây ô nhiễm, rác thải, hóa chất nguy hại và các hàng hoá có nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường khác;
- Hàng giả, sở hữu trí tuệ: phòng tránh hàng nhái, hàng vi phạm quyền nhãn hiệu, sáng chế và các hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ khác;
- Ma túy, tiền chất;
- Vũ khí, chất phóng xạ;
- Buôn lậu, vận chuyển trái phép.
Đồng thời, trong một danh mục được quy định còn bao gồm những nội dung cụ thể và tiêu chí xây dựng phù hợp với phân loại mức độ rủi ro của hàng hoá đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh trong hoạt động nghiệp vụ hải quan.
Như vậy, điều luật có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện cơ chế quản lý rủi ro của cơ quan hải quan, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu. Bởi, xác định danh mục hàng hóa rủi ro là công cụ nghiệp vụ quan trọng giúp cơ quan hải quan chủ động nhận diện, phân tích và đánh giá các nguy cơ vi phạm pháp luật như buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế hoặc vận chuyển hàng cấm. Đồng thời, điều luật cũng thể hiện nguyên tắc khách quan, minh bạch và cân bằng giữa kiểm soát và tạo thuận lợi thương mại khi quy định rằng danh mục này chỉ là một trong nhiều căn cứ phục vụ quản lý và không được sử dụng làm cơ sở duy nhất để kiểm tra hay thanh tra. Ngoài ra, việc xây dựng danh mục theo từng nhóm rủi ro cụ thể và dựa trên dữ liệu thực tế giúp hải quan tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực trọng điểm, giảm thiểu kiểm tra không cần thiết. Từ đó, vừa đảm bảo an ninh, an toàn thương mại quốc gia, vừa thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển ổn định, minh bạch và bền vững.
Trân trọng./.











