Cung cấp thông tin lý lịch tư pháp từ ngày 01 tháng 7 năm 2010 để xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp được quy định thực hiện như thế nào?

Cung cấp thông tin lý lịch tư pháp từ ngày 01 tháng 7 năm 2010 để xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp được quy định thực hiện như thế nào?

Cung cấp thông tin lý lịch tư pháp từ ngày 01 tháng 7 năm 2010 để xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp được quy định thực hiện như thế nào?

Luật sư cho tôi hỏi: Việc cung cấp, thu thập và tổng hợp thông tin lý lịch tư pháp phát sinh từ ngày 01 tháng 7 năm 2010 nhằm phục vụ cho mục tiêu xây dựng, vận hành và hoàn thiện cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp quốc gia được quy định và tổ chức thực hiện ra sao theo các quy định pháp luật hiện hành? Quy trình cung cấp thông tin này được phân công cụ thể cho những cơ quan, tổ chức nào?

MỤC LỤC

1. Thông tin lý lịch tư pháp về án tích do Tòa án cung cấp

2. Thông tin lý lịch tư pháp về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã do Tòa án cung cấp

3. Thông tin lý lịch tư pháp do Viện kiểm sát cung cấp

4. Thông tin lý lịch tư pháp về án tích do cơ quan Công an cung cấp

5. Thông tin lý lịch tư pháp do cơ quan thi hành án dân sự cung cấp

6. Thông tin lý lịch tư pháp của người bị Tòa án quân sự kết án

 

Trả lời:

1. Thông tin lý lịch tư pháp về án tích do Tòa án cung cấp

Căn cứ theo Điều 13 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012 của Bộ Công An, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp (“Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP”) quy định như sau:

“Điều 13. Thông tin lý lịch tư pháp về án tích do Tòa án cung cấp

1. Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án cho Sở Tư pháp nơi Tòa án đó có trụ sở trích lục bản án hình sự hoặc bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật; trường hợp vụ án được xét xử theo thủ tục phúc thẩm thì Tòa án đã xét xử phúc thẩm cung cấp bản án phúc thẩm kèm theo bản án sơ thẩm cho Sở Tư pháp nơi Tòa án đó có trụ sở.

2. Trường hợp bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật được xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì Ban thư ký Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ gửi quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm cho Sở Tư pháp nơi Tòa án có trụ sở.

3. Tòa án đã ra các quyết định sau đây có nhiệm vụ gửi quyết định đó cho Sở Tư pháp nơi Tòa án có trụ sở:

a) Quyết định thi hành án phạt tù, án treo, án phạt cải tạo không giam giữ trong trường hợp người bị kết án phải chấp hành án phạt tù, án treo, án phạt cải tạo không giam giữ;

b) Quyết định thi hành án phạt trục xuất trong trường hợp người bị kết án phải chấp hành án phạt trục xuất;

c) Quyết định hoãn chấp hành án phạt tù trong trường hợp người bị kết án phải chấp hành án phạt tù mà được hoãn thi hành án;

d) Quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành án phạt tù nhưng được tạm đình chỉ thi hành án;

đ) Quyết định miễn chấp hành án phạt tù có thời hạn, án phạt cải tạo không giam giữ trong trường hợp người bị kết án được miễn chấp hành án phạt tù có thời hạn, án phạt cải tạo không giam giữ;

e) Quyết định miễn chấp hành án phạt cấm cư trú, án phạt quản chế trong trường hợp người bị kết án được miễn chấp hành án phạt cấm cư trú, án phạt quản chế;

g) Quyết định giảm chấp hành án phạt tù, án phạt cải tạo không giam giữ trong trường hợp người bị kết án được giảm chấp hành án phạt tù, án phạt cải tạo không giam giữ;

h) Quyết định rút ngắn thời gian thử thách án treo trong trường hợp người bị kết án được rút ngắn thời gian thử thách án treo;

i) Quyết định đình chỉ việc chấp hành án phạt tù trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành án phạt tù chết;

k) Quyết định đình chỉ thi hành án trong trường hợp người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù chết;

l) Quyết định miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước trong trường hợp người bị kết án được miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước.

4. Tòa án đã cấp giấy chứng nhận đặc xá trong trường hợp người bị kết án được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù có nhiệm vụ gửi giấy chứng nhận đó cho Sở Tư pháp nơi Tòa án có trụ sở.

5. Tòa án đã ra quyết định xóa án tích hoặc cấp giấy chứng nhận xóa án tích có nhiệm vụ gửi quyết định, giấy chứng nhận đó cho Sở Tư pháp nơi Tòa án có trụ sở.

6. Tòa án đã ra quyết định thi hành án tử hình có nhiệm vụ gửi quyết định đó cho Sở Tư pháp nơi Tòa án có trụ sở. Trường hợp người bị kết án tử hình được Chủ tịch nước quyết định ân giảm án tử hình thì Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án có nhiệm vụ gửi quyết định đó cho Sở Tư pháp nơi Tòa án có trụ sở.

7. Tòa án đã ra quyết định tiếp nhận chuyển giao, quyết định thi hành án quyết định tiếp nhận chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam có nhiệm vụ gửi quyết định đó cho Sở Tư pháp nơi Tòa án có trụ sở.

8. Tòa án đã ra quyết định chuyển giao cho người đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam cho nước ngoài có nhiệm vụ gửi quyết định đó cho Sở Tư pháp nơi Tòa án có trụ sở.

9. Thời hạn gửi trích lục bản án hình sự, bản án hình sự, quyết định, giấy chứng nhận quy định tại các khoản từ khoản 1 đến khoản 8 được thực hiện như sau:

a) Thời hạn gửi các văn bản quy định tại khoản 1, 2, các điểm i, k, l khoản 3 và các khoản 4, 5, 7 và khoản 8 Điều này là 10 ngày làm việc, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định hoặc kể từ ngày cấp giấy chứng nhận.

Đối với bản án phạt cảnh cáo thì thời hạn gửi trích lục bản án hoặc bản án là 07 ngày làm việc, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật;

b) Thời hạn gửi các quyết định quy định tại các điểm a, c, đ, e, g, h khoản 3 và tại khoản 6 Điều này là 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định;

c) Các quyết định quy định tại các điểm b, d khoản 3 Điều này được gửi ngay sau khi ra quyết định.”

Theo đó, có thể khẳng định rằng Tòa án giữ vai trò trung tâm và có trách nhiệm pháp lý rõ ràng, đầy đủ trong việc cung cấp thông tin lý lịch tư pháp về án tích cho Sở Tư pháp nơi Tòa án có trụ sở. Thông tin này bao gồm không chỉ bản án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, mà còn các quyết định có liên quan đến quá trình thi hành án, miễn, giảm, hoãn, đình chỉ, ân giảm, đặc xá, xóa án tích và cả việc chuyển giao người đang chấp hành án giữa Việt Nam và nước ngoài,…

Điểm đặc biệt là quy định trên đã phân loại chi tiết các loại quyết định cần cung cấp, tương ứng với trạng thái pháp lý và tiến trình thi hành án của người bị kết án, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu thập, cập nhật, quản lý thông tin lý lịch tư pháp một cách chặt chẽ, chính xác và đầy đủ, phù hợp với bản chất hoạt động tư pháp và yêu cầu lập hồ sơ lý lịch tư pháp quốc gia.

2. Thông tin lý lịch tư pháp về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã do Tòa án cung cấp

Căn cứ theo Điều 14 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP quy định như sau:

“Điều 14. Thông tin lý lịch tư pháp về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã do Tòa án cung cấp

Tòa án đã ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, trong đó có nội dung cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã có nhiệm vụ gửi cho Sở Tư pháp nơi Tòa án đó có trụ sở quyết định tuyên bố phá sản hoặc trích lục quyết định tuyên bố phá sản (theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này) trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật.”

Theo quy định trên, Tòa án có trách nhiệm cung cấp thông tin lý lịch tư pháp liên quan đến việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong các quyết định tuyên bố phá sản. Đây là một trong những nội dung quan trọng trong cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, nhằm phục vụ cho việc xác minh năng lực pháp lý và nhân thân của cá nhân trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh, quản trị doanh nghiệp và hợp tác xã.

Thông tin này phải được Tòa án gửi cho Sở Tư pháp nơi Tòa án có trụ sở bằng quyết định tuyên bố phá sản hoặc trích lục quyết định tuyên bố phá sản được lập theo mẫu quy định, trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật. Việc tuân thủ nghiêm túc thời hạn này là yếu tố then chốt để đảm bảo cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp được cập nhật kịp thời, đầy đủ và chính xác, qua đó giúp ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh, đồng thời hỗ trợ hiệu quả cho công tác quản lý nhà nước và hoạt động xét duyệt, tuyển dụng, cấp phép của các cơ quan có thẩm quyền.

3. Thông tin lý lịch tư pháp do Viện kiểm sát cung cấp

Căn cứ theo Điều 15 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP quy định như sau:

“Điều 15. Thông tin lý lịch tư pháp do Viện kiểm sát cung cấp

1. Vụ Hợp tác quốc tế thuộc Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có nhiệm vụ gửi cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia trích lục bản án, trích lục án tích của công dân Việt Nam do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được trích lục bản án, trích lục án tích.

2. Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao có nhiệm vụ gửi cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù trong trường hợp kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định.

3. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh đã ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù trong trường hợp kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm có nhiệm vụ gửi quyết định đó cho Sở Tư pháp nơi Viện kiểm sát đó có trụ sở trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định.”

Căn cứ theo quy định trên, có thể thấy rằng Viện kiểm sát nhân dân các cấp, đặc biệt là Viện kiểm sát nhân dân tối cao, có vai trò và trách nhiệm rõ ràng trong việc cung cấp thông tin lý lịch tư pháp liên quan đến các bản án, quyết định về án tích và việc tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù.

Việc cung cấp thông tin này không chỉ áp dụng đối với trích lục bản án, án tích của công dân Việt Nam do cơ quan nước ngoài cung cấp, mà còn mở rộng đến các quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù trong trường hợp kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, một nội dung quan trọng có thể ảnh hưởng đến hiệu lực thi hành án và tính xác thực của hồ sơ lý lịch tư pháp.

4. Thông tin lý lịch tư pháp về án tích do cơ quan Công an cung cấp

Căn cứ theo Điều 16 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP quy định như sau:

“Điều 16. Thông tin lý lịch tư pháp về án tích do cơ quan Công an cung cấp

1. Giám thị trại giam, giám thị trại tạm giam, Phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an cấp tỉnh có nhiệm vụ gửi cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia giấy chứng nhận đã chấp hành xong án phạt tù, giấy chứng nhận đặc xá, đại xá trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày cấp giấy chứng nhận.

2. Cục Theo dõi thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp có nhiệm vụ gửi thông báo về việc thi hành quyết định tiếp nhận chuyển giao cho người đang chấp hành án phạt tù từ nước ngoài về Việt Nam, quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam cho nước ngoài, thông báo về quyết định đặc xá, đại xá, miễn, giảm hình phạt của nước chuyển giao đối với người đang chấp hành án phạt tù cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày thi hành quyết định hoặc kể từ ngày nhận được thông báo.

3. Phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an cấp tỉnh có nhiệm vụ gửi cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia văn bản thông báo về việc thi hành án phạt trục xuất trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày thi hành xong án phạt trục xuất theo quy định tại khoản 1 Điều 101 Luật Thi hành án hình sự.

4. Công an cấp huyện (Bộ phận thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp) có nhiệm vụ cung cấp các thông tin sau đây:

a) Giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời gian thử thách án treo, án phạt cải tạo không giam giữ cho Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định thi hành án có trụ sở trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày cấp giấy chứng nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 62, khoản 3 Điều 73 Luật Thi hành án hình sự;

b) Giấy chứng nhận đã chấp hành xong án phạt cấm cư trú, án phạt quản chế, án phạt tước một số quyền công dân, án phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định cho Sở Tư pháp nơi cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có trụ sở trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày cấp giấy chứng nhận theo quy định tại khoản 4 Điều 82, khoản 3 Điều 89, khoản 5 Điều 103 và khoản 5 Điều 107 Luật Thi hành án hình sự.”

Theo đó, thông tin lý lịch tư pháp về án tích do cơ quan Công an cung cấp là một trong những nguồn dữ liệu quan trọng phục vụ công tác quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp, có liên quan trực tiếp đến việc xác định tình trạng án tích và hậu quả pháp lý của người bị kết án. Các cơ quan Công an, từ cấp Trung ương đến địa phương, được phân công trách nhiệm rõ ràng, cụ thể và thống nhất trong việc thu thập, cấp giấy chứng nhận, thông báo hoặc chuyển giao thông tin đến Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp tùy theo từng trường hợp.

Do đó, việc thực thi đầy đủ các nghĩa vụ cung cấp thông tin lý lịch tư pháp không chỉ bảo đảm thực hiện đúng chức năng pháp lý của cơ quan Công an, mà còn góp phần quan trọng trong công tác cải cách tư pháp, tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong các giao dịch dân sự, kinh tế – xã hội có liên quan đến lý lịch tư pháp.

5. Thông tin lý lịch tư pháp do cơ quan thi hành án dân sự cung cấp

Căn cứ theo Điều 17 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP quy định như sau:

Điều 17. Thông tin lý lịch tư pháp do cơ quan thi hành án dân sự cung cấp

1. Cục Thi hành án dân sự tỉnh, Chi cục Thi hành án dân sự huyện đã ra quyết định thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản, án phí và các nghĩa vụ dân sự khác của người bị kết án trong bản án hình sự; quyết định đình chỉ thi hành án (nếu có); giấy xác nhận kết quả thi hành án (nếu có) có nhiệm vụ gửi quyết định, giấy xác nhận đó cho Sở Tư pháp nơi cơ quan thi hành án có trụ sở trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định hoặc cấp giấy xác nhận.

2. Trường hợp người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt tiền, tịch thu tài sản, án phí và các nghĩa vụ dân sự khác trong bản án hình sự thì Cục Thi hành án dân sự tỉnh, Chi cục Thi hành án dân sự huyện thông báo bằng văn bản (theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này) cho Sở Tư pháp nơi cơ quan thi hành án có trụ sở trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày người bị kết án đã chấp hành xong nghĩa vụ dân sự trong bản án hình sự.”

Cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm quan trọng trong việc phối hợp cung cấp thông tin lý lịch tư pháp liên quan đến việc thi hành các hình phạt tiền, tịch thu tài sản, án phí và các nghĩa vụ dân sự khác phát sinh từ bản án hình sự. Việc gửi các quyết định thi hành án, giấy xác nhận kết quả thi hành án hoặc thông báo hoàn thành nghĩa vụ dân sự cho Sở Tư pháp nơi cơ quan thi hành án có trụ sở phải được thực hiện đúng thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định, cấp giấy xác nhận hoặc hoàn thành nghĩa vụ bảo đảm tính kịp thời, chính xác và đầy đủ của dữ liệu lý lịch tư pháp.

Quy định này không chỉ thể hiện nguyên tắc phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong công tác quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp, mà còn góp phần bảo đảm quyền lợi hợp pháp của cá nhân đã chấp hành xong nghĩa vụ, giúp cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp phản ánh đúng thực trạng pháp lý của từng cá nhân.

Đồng thời, đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để Sở Tư pháp và Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia thực hiện việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp một cách khách quan, minh bạch, chính xác theo đúng quy định của Luật Lý lịch tư pháp.

Lưu ý: Do có điều chỉnh về mô hình chính quyền địa phương 02 cấp (cấp tỉnh và cấp xã) nên sẽ kết thúc hoạt động của Công an cấp huyện; Chi cục Thi hành án dân sự huyện (căn cứ theo mục 5 Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 của Ban Chấp hành Trung ương về hội nghị lần thứ 11 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII).

6. Thông tin lý lịch tư pháp của người bị Tòa án quân sự kết án

Căn cứ theo Điều 18 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP quy định như sau:

“Điều 18. Thông tin lý lịch tư pháp của người bị Tòa án quân sự kết án

1. Việc cung cấp thông tin lý lịch tư pháp của người bị kết án là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ phối hợp với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh số 04/2002/PL-UBTVQH ngày 04 tháng 11 năm 2002 về việc tổ chức Tòa án quân sự (sau đây gọi là Pháp lệnh số 04/2002/PL-UBTVQH) được thực hiện như sau:

a) Trường hợp Tòa án quân sự xét xử vụ án hoặc ra quyết định hoặc nhận được bản án, quyết định quy định tại khoản 1, 2, các điểm từ điểm a đến điểm đ, các điểm từ điểm g đến điểm l khoản 3 và các khoản từ khoản 4 đến khoản 6 Điều 13 Thông tư liên tịch này thì Tòa án đó có nhiệm vụ gửi cho Tòa án quân sự Trung ương bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật, quyết định, giấy chứng nhận;

b) Viện kiểm sát đã ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với người đã bị Tòa án quân sự xét xử có nhiệm vụ gửi quyết định đó cho Tòa án quân sự Trung ương;

c) Giám thị trại giam, giám thị trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng, giám thị trại giam, giám thị trại tạm giam cấp quân khu có nhiệm vụ gửi cho Tòa án quân sự Trung ương giấy chứng nhận đã chấp hành xong án phạt tù, giấy chứng nhận đặc xá, đại xá;

d) Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có nhiệm vụ gửi cho Tòa án quân sự Trung ương giấy chứng nhận đã chấp hành xong án phạt cải tạo không giam giữ, giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời gian thử thách án treo;

đ) Phòng thi hành án cấp quân khu có nhiệm vụ gửi cho Tòa án quân sự Trung ương quyết định thi hành án hình phạt tiền, tịch thu tài sản, án phí và các nghĩa vụ dân sự khác của người bị kết án trong bản án hình sự; quyết định đình chỉ thi hành án (nếu có); giấy xác nhận kết quả thi hành án (nếu có). Trường hợp người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt tiền, tịch thu tài sản, án phí và các nghĩa vụ dân sự khác trong bản án hình sự thì cơ quan thi hành án cấp quân khu thông báo bằng văn bản (theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này) cho Tòa án quân sự Trung ương;

e) Thời hạn gửi trích lục bản án hình sự, bản án hình sự, quyết định, giấy chứng nhận quy định tại điểm a khoản 1 Điều này được thực hiện theo quy định tại khoản 9 Điều 13 Thông tư liên tịch này.

Thời hạn gửi quyết định, giấy chứng nhận quy định tại các điểm b, c, d, đ khoản 1 Điều này là 10 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định hoặc cấp giấy chứng nhận hoặc kể từ ngày người bị kết án chấp hành xong nghĩa vụ dân sự trong bản án hình sự;

g) Sau khi người bị kết án đã chấp hành xong bản án hoặc được đặc xá, đại xá mà không tiếp tục phục vụ trong quân đội nữa thì Tòa án quân sự Trung ương có nhiệm vụ gửi toàn bộ thông tin lý lịch tư pháp của người đó cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày người bị kết án đã chấp hành xong bản án hoặc được đặc xá, đại xá.

2. Trường hợp người bị Tòa án quân sự kết án thuộc đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh số 04/2002/PL-UBTVQH thì Tòa án quân sự Trung ương có nhiệm vụ gửi toàn bộ thông tin lý lịch tư pháp của người đó cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông tin do các cơ quan, đơn vị có liên quan cung cấp theo quy định tại khoản 1 Điều này.”

Theo đó, việc cung cấp thông tin lý lịch tư pháp đối với người bị Tòa án quân sự kết án được tổ chức chặt chẽ, có phân công cụ thể trách nhiệm cho từng cơ quan trong hệ thống Tòa án quân sự, cơ quan thi hành án, trại giam, Viện kiểm sát và cơ quan thi hành án dân sự trong quân đội.

Trong đó, Tòa án quân sự Trung ương là đầu mối có trách nhiệm tổng hợp, tiếp nhận và chuyển giao đầy đủ, chính xác, kịp thời toàn bộ thông tin lý lịch tư pháp của người bị kết án sang Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia khi người bị kết án không còn tiếp tục phục vụ trong quân đội hoặc thuộc các trường hợp khác quy định pháp luật.

Quy định này không chỉ bảo đảm tính liên thông giữa cơ quan tư pháp quân sự và hệ thống tư pháp trong việc lưu trữ và cập nhật dữ liệu lý lịch tư pháp, mà còn thể hiện tính thống nhất, đầy đủ và kịp thời trong quản lý thông tin tư pháp về người bị kết án quân sự, phục vụ cho mục đích quản lý nhà nước, xét xử, điều tra, thi hành án và thực hiện các thủ tục hành chính theo đúng quy định pháp luật.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý